leftcenterrightdel
Tập thể VKSND huyện Giồng Riềng (ảnh: VKSND tỉnh Kiên Giang)

Theo đó, trong số các vụ án quá hạn luật định, có những vụ án, Tòa án đã thụ lý từ năm 2016, mặc dù Chánh án có chủ động ra quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, tuy nhiên, sau khi hết thời hạn gia hạn, đến nay đã hơn 2 năm kể từ ngày hết thời hạn gia hạn nhưng vụ án vẫn chưa được đưa ra giải quyết.

Đơn cử như đối với vụ án thụ lý số 128/TB-TLVA ngày 13/6/2016 giữa nguyên đơn là bà Ngô Thị Thư và bị đơn là ông Ngô Thanh Tùng về việc “Yêu cầu tháo dỡ công trình xây dựng và tranh chấp quyền sử dụng đất”, quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử số 23/QĐ-GHXX ngày 13/10/2016. Sau khi hết thời hạn gia hạn là 2 tháng kể từ ngày 13/10/2016, đến nay VKS vẫn chưa nhận được văn bản tố tụng nào có liên quan trong việc giải quyết vụ án.

Ngoài ra, có những vụ án trong quá trình tố tụng, Thẩm phán đã chủ động ra quyết định tạm đình chỉ, quyết định tiếp tục giải quyết vụ án. Tuy nhiên, trong thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án có hiệu lực thì VKS không nhận được một trong các quyết định được quy định tại Điều 203 BLTTDS.

Cụ thể, đối với vụ án thụ lý số 10/TB-TLVA ngày 11/1/2017 giữa nguyên đơn là bà Trần Kim Liễu và bị đơn là ông Phạm Ngọc Đăng, ông Phạm Ngọc Huyền về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, quyết định tạm đình chỉ số 29/2017/QĐST-DS ngày 7/9/2019, quyết định tiếp tục giải quyết vụ án số 69/2018/QĐST-DS ngày 28/2/2018. Quyết định tạm đình chỉ đã hết hiệu lực kể từ ngày ban hành quyết định tiếp tục giải quyết vụ án, nhưng đến nay đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định, vụ án vẫn chưa được đưa ra giải quyết.

Trong số các vụ án quá hạn đã được thống kê thì có những vụ án đã quá thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng VKS không nhận được một trong các quyết định quy định tại khoản 3 Điều 203 BLTTDS. Việc để số án quá hạn tồn đọng kéo dài là vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử và làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Do đó, VKSND huyện đã ban hành kiến nghị, yêu cầu đồng chí Chánh án TAND huyện có biện pháp chỉ đạo, kiểm tra để khắc phục vi phạm nêu trên./.

Khoản 1 Điều 203 BLTTDS quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử như sau:

“1. Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án, trừ các vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài được quy định như sau:

a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này thì thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;

...

Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá 02 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này và không quá 01 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản này.

Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật”.

Trân Định - Thu Vũ