Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của KSV chính là “Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành điều tra để làm rõ tội phạm, người phạm tội” (Điều 165 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015)

leftcenterrightdel

Kiểm sát khám nghiệm hiện trường (VKS Hà Đông). 

Yêu cầu điều tra chất lượng tốt giúp điều tra viên (ĐTV) thu thập đầy đủ, củng cố chứng cứ, hoàn thiện thủ tục tố tụng, bảo đảm cho việc điều tra vụ án được khách quan, toàn diện và đầy đủ, tránh bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội. Ngoài ra, thông qua văn bản này sẽ đánh giá được trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm của KSV.

Yêu cầu điều tra có thể thực hiện nhiều lần, chủ yếu bằng văn bản, chỉ trong trường hợp kiểm sát trực tiếp hoạt động điều tra như khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra, KSV mới yêu cầu điều bằng lời nói.

Thời gian qua, bên cạnh những văn bản yêu cầu điều tra chất lượng, kịp thời, góp phần chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, quyết định khởi tố bị can đúng với hành vi phạm tội của bị can, thì vẫn còn một số văn bản chưa cụ thể, rõ ràng, yêu cầu những vấn đề không cần thiết, những nội dung mà bất kỳ vụ án nào, CQĐT, ĐTV cũng phải thực hiện, như yêu cầu hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, làm rõ nhân thân bị can, lập danh chỉ bản; hoặc yêu cầu những vấn đề mà CQĐT, ĐTV không thể thực hiện được hoặc đã thực hiện rồi.

Ví dụ: Vụ án Trần Văn C phạm tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại Điều 134 BLHS 2015. Hồ sơ vụ án thể hiện bị can đã ném con dao gây án xuống vực sâu trên đường chạy trốn, không rõ địa điểm, không thể thu giữ nhưng KSV vẫn yêu cầu phải tìm kiếm. Một số KSV không kiểm sát việc thực hiện yêu cầu điều tra, bỏ mặc ĐTV thực hiện, đến khi chuyển hồ sơ sang VKS mới phát hiện việc điều tra chưa đầy đủ, phải trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung…

Để khắc phục các tồn tại, hạn chế nêu trên, chúng tôi đề xuất một số giải pháp, cụ thể:

Thứ nhất, tiếp tục nâng cao kỹ năng xây dựng văn bản yêu cầu điều tra

Nghiên cứu, nắm vững quy định của BLTTHS năm 2015, quy định của BLHS liên quan đến tội phạm đã khởi tố vụ án và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Nghiên cứu kỹ các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được, đối chiếu với các dấu hiệu cấu thành tội phạm cụ thể và những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án để xác định, tổng hợp và phân loại thành: vấn đề đã được làm rõ, chưa làm rõ, các mâu thuẫn trong hồ sơ chưa giải quyết, các thủ tục tố tụng chưa thực hiện hoặc đã thực hiện nhưng chưa đầy đủ, chưa đúng quy định...

leftcenterrightdel

KSV nghiên cứu hồ sơ vụ án (VKS Hà Nội). 

Văn bản yêu cầu điều tra phải đúng mẫu số 83/HS ban hành kèm theo Quyết định số 15/QĐ-VKSTC ngày 09/01/2018 của VKSND tối cao về mẫu văn bản tố tụng, văn bản nghiệp vụ thực hiện trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố.

Bản yêu cầu điều tra phải thể hiện đầy đủ các vấn đề chưa được điều tra làm rõ, các vấn đề còn mâu thuẫn; các thủ tục tố tụng có vi phạm, từ đó yêu cầu CQĐT, ĐTV điều tra làm rõ.

Sau khi dự thảo nội dung yêu cầu điều tra, KSV chủ động trao đổi với ĐTV để thống nhất nội dung, phương pháp thực hiện, sau đó sửa đổi những điểm yêu cầu điều tra chưa rõ, khó hiểu hoặc không thể thực hiện được nhằm bảo đảm văn bản này khả thi, được ĐTV chấp nhận thực hiện.

KSV báo cáo, xin ý kiến lãnh đạo VKS, lãnh đạo đơn vị trước khi ký ban hành văn bản yêu cầu điều tra.

Muốn văn bản yêu cầu điều tra được thực hiện hiệu quả, ngoài gửi cho ĐTV, KSV nên gửi thêm văn bản này đến lãnh đạo CQĐT biết, theo dõi, chỉ đạo đối với ĐTV.

KSV phải theo dõi chặt chẽ quá trình ĐTV thực hiện Bản yêu cầu điều tra, nghiên cứu, đối chiếu các chứng cứ, tài liệu ĐTV thu thập được với Bản yêu cầu điều tra, kịp thời có ý kiến khi ĐTV không thực hiện, chậm thực hiện hoặc thực hiện chưa đúng, chưa đầy đủ yêu cầu điều tra. Nếu ĐTV không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ yêu cầu điều tra, thì tùy từng trường hợp, KSV báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện kiến nghị bằng văn bản với Thủ trưởng CQĐT hoặc yêu cầu thay đổi ĐTV.

Vụ án: Nguyễn T và đồng phạm phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS 2015. Sau khi CQĐT khởi tố vụ án, khởi tố đối với các bị can, KSV đã ban hành yêu cầu điều tra đến 3 lần, trong đó nêu rõ những nội dung, hoạt động điều tra cần thiết phải tiến hành để giải quyết toàn diện, triệt để đối với vụ án. Tuy nhiên, ĐTV chậm thực hiện và thực hiện không đầy đủ các nội dung yêu cầu điều tra. Do đó, KSV đã tham mưu lãnh đạo VKS ban hành kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm trong hoạt động điều tra của ĐTV.

Nếu quá trình điều tra phát sinh các tình tiết mới thì KSV  yêu cầu điều tra bổ sung.

Thứ hai, Lãnh đạo VKS thường xuyên kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của KSV, chú trọng kiểm tra chất lượng các văn bản yêu cầu điều tra của KSV thông qua việc yêu cầu KSV khi ban hành yêu cầu điều tra phải chuyển cho lãnh đạo 1 bản để kiểm tra, chỉ ra những tồn tại, hạn chế, kiểm điểm rút kinh nghiệm nhằm nâng cao trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ của KSV.

VKS cấp dưới định kỳ tổng hợp các khó khăn, vướng mắc trong việc yêu cầu điều tra, báo cáo VKS cấp trên để hướng dẫn, giải đáp kịp thời. VKS cấp trên tổng hợp các văn bản yêu cầu điều tra có chất lượng tốt, các kinh nghiệm hay trong xây dựng, ban hành và thực hiện yêu cầu điều tra để phổ biến cho cán bộ, KSV thuộc quyền quản lý học tập, nâng cao năng lực.

leftcenterrightdel
 Họp án (VKS Quảng Ninh). Ảnh Việt Cường.

Thứ ba, VKS cấp trên quan tâm tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, kinh nghiệm, quy trình yêu cầu điều tra đối với từng nhóm tội, loại tội cụ thể, qua đó giúp KSV vận dụng, thực hiện trong thực tiễn có hiệu quả hơn.

Thứ tư, đề xuất cơ quan có thẩm quyền tổng kết thực tiễn, rà soát để sửa đổi, hoàn thiện các quy định liên quan đến yêu cầu điều tra, chẳng hạn: sửa đổi khoản 6 Điều 165 BLTTHS  2015 theo hướng VKS chỉ đề ra yêu cầu điều tra khi cần thiết, bởi lẽ đối với các vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng mà vẫn phải ban hành yêu cầu điều tra thì chất lượng yêu cầu điều tra không cao, hình thức.

Khoản 2 Điều 11 Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT quy định trường hợp CQĐT không thực hiện yêu cầu điều tra của VKS hoặc đã tiến hành các hoạt động điều tra nhưng do trở ngại khách quan mà không thể thực hiện được yêu cầu điều tra của VKS thì CQĐT phải nêu rõ lý do trong bản kết luận điều tra, thế là trái với quy định tại khoản 1 Điều 167 BLTTHS 2015. Vấn đề này cần được liên ngành tư pháp Trung ương có văn bản hướng dẫn.

Thứ năm, Liên ngành VKS - CQĐT có thể nghiên cứu xây dựng quy chế phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc xây dựng và thực hiện văn bản yêu cầu điều tra, trong đó quy định rõ nêu rõ nguyên tắc phối hợp, trách nhiệm của lãnh đạo CQĐT, VKS, ĐTV, KSV, các nội dung phối hợp cụ thể...

Tăng cường tổ chức các cuộc họp giao ban liên ngành tố tụng định kỳ để giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong việc điều tra, cũng như việc thực hiện các nội dung yêu cầu điều tra của KSV.

KSV và ĐTV phải phối hợp chặt chẽ, thường xuyên trao đổi với nhau về tiến độ, chất lượng thực hiện Bản yêu cầu điều tra, các khó khăn vướng mắc trong khi thực hiện, rồi cùng thống nhất biện pháp giải quyết. Nếu không giải quyết được thì KSV báo cáo lãnh đạo VKS để có ý kiến chỉ đạo kịp thời.

 

ANH MINH