Qua phân tích từ 76 cuốn sách giáo khoa của sáu môn học phổ thông, có gần 8.300 nhân vật được đề cập, trong đó nam giới chiếm 69%, nữ 24%. Sự phân biệt, trọng nam hơn nữ như thế này xuất hiện rõ rệt trong sách giáo khoa (SGK) ngay từ bậc tiểu học.

 

Hình minh họa trong SGK luôn đặt khuôn mẫu về phân công lao động giữa nam và nữ khiến khó thực hiện về việc bình đẳng giới như yêu cầu của xã hội
Ví dụ về một hình minh họa trong SGK luôn đặt khuôn mẫu về phân công lao động giữa nam và nữ khiến khó thực hiện về việc bình đẳng giới như yêu cầu của xã hội. Nguồn: Internet
 
Hội thảo Đảm bảo bình đẳng giới trong chương trình giáo dục phổ thông ngày 28/8 do Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tổ chức, các chuyên gia đã chỉ ra những vấn đề bất bình đẳng giới và giáo dục giới tính tồn tại trong sách giáo khoa và đề ra những cách thức cải thiện trong chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa mới.
 
Ông Trần Kim Tự, Cục phó Nhà giáo (Bộ Giáo dục và Đào tạo), cho biết theo báo cáo nghiên cứu của Bộ và UNESCO, vấn đề giới trong sách giáo khoa Việt Nam còn nhiều nội dung, hình ảnh mang định kiến giới. Thứ nhất là mất cân đối về số lượng tác giả nam và nữ trong sách giáo khoa.
 
Thứ hai là mất cân đối về tỷ lệ nhân vật nam và nữ. Thứ ba là hình ảnh đại diện nghề nghiệp của nam và nữ chưa phản ánh được xu hướng và những thay đổi trong xã hội. Thứ tư là nội dung về giáo dục giới tính, kỹ năng sống chưa được đề cập một cách bài bản, chính thức.
 
Trong những trang sách giáo khoa hiện nay, phụ nữ thường tham gia vào những ngành nghề đơn giản, ít đòi hỏi chuyên môn, mà nếu là trí thức thì thường chỉ làm nội trợ, giáo viên, nhân viên văn phòng và là phái yếu, phải phụ thuộc vào một ai đó.
 
Nam giới trong sách giáo khoa thường xuất hiện ở tất cả các lĩnh vực đòi hỏi yêu cầu trình độ chuyên môn cao cũng như thể lực, sức khỏe tốt như bác sĩ, nhà khoa học, kỹ sư, công an, bộ đội, là trụ cột trong gia đình và có tiếng nói quyết định.

 

Số liệu thống kê cho thấy sự bất bình đẳng giới trong sách giáo khoa hiện hành. Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Số liệu thống kê cho thấy sự bất bình đẳng giới trong sách giáo khoa hiện hành. Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nguồn: vnexpress
 
“Hình ảnh, nội dung mang định kiến giới trong sách giáo khoa, chương trình giáo dục có thể làm khắc sâu định kiến giới trong nhận thức trẻ em, làm chậm tiến trình đạt được bình đẳng giới thực chất”, ông Tự nhận định.
 
Ngoài ra, nội dung bình đẳng giới và giáo dục giới tính sẽ được chú trọng hơn trong chương trình mới. Đặc biệt, kiến thức về sức khỏe sinh sản sẽ được đưa vào sách giáo khoa từ lớp 4, sớm hơn một năm so với chương trình hiện hành, và giáo dục giới tính nói chung có thể được giới thiệu từ mầm non.
 
Ở chương trình mới, bình đẳng giới sẽ là nội dung chính ở một số môn chứ không phải chỉ đơn thuần là lồng ghép, ví dụ ở môn Đạo đức, Tự nhiên xã hội, Khoa học, Hoạt động trải nghiệm ở cấp tiểu học; Giáo dục công dân, Khoa học tự nhiên, Hoạt động trải nghiệm ở cấp THCS; Sinh học, Giáo dục kinh tế và Pháp luật ở cấp THPT...
 
Bên cạnh đó, kiến thức về giáo dục giới tính và bình đẳng giới có thể được lồng ghép và là nội dung tích hợp ở tất cả môn học, trong đó mạnh nhất và sâu sắc nhất là ở môn Ngữ văn.
 
"Tuy nhiên, những nội dung này vốn được coi là nhạy cảm, tế nhị, gây ý kiến trái chiều nên xã hội chưa chắc đã đồng tình. Các chuyên gia thì nói đưa muộn khiến học sinh bị thiếu kiến thức. Nhiều người lại e ngại đưa sớm sẽ dễ vẽ đường cho hươu chạy", ông Thuyết cho biết thêm.
 
Thùy Hương (t/h)