leftcenterrightdel
 Phương án lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu

Thứ trưởng Doãn Mậu Diệp- Phó trưởng ban soạn thảo Bộ Luật Lao động (sửa đổi) cho biết về một số nội dung liên quan đến vấn đề này qua cuộc trao đổi với Báo Lao động và Xã hội.

leftcenterrightdel
 Thứ trưởng Doãn Mậu Diệp- Phó trưởng ban soạn thảo Bộ Luật Lao động (sửa đổi) 

Về việc nâng tuổi nghỉ hưu đối với người lao động, còn có ý kiến băn khoăn là trong bối cảnh nước ta luôn có khoảng 1 triệu lao động thất nghiệp thì không hợp lý. Câu hỏi đầu tiên, Thứ trưởng cho rằng một triệu lao động thất nghiệp là nhiều hay ít?

Xin cám ơn bạn về câu hỏi này vì nhận định nào cũng cần dựa trên các bằng chứng và số liệu cụ thể chứ không nên dựa vào cảm tính.

Trước hết 1 triệu người thất nghiệp là nhiều hay ít? 1 triệu người thất nghiệp mà so với tổng số 4,4 triệu lao động của Singapore thì quả là kinh khủng vì cứ 4 người thì có một người thất nghiệp; nhưng nếu so với 220 triệu lao động của Mỹ thì chỉ như muối bỏ biển. Như vậy nhiều hay ít phải so với tổng số người trong lực lượng lao động, tức là phải xem mẫu số lớn hay nhỏ. So với 55 triệu lao động của Việt Nam thì chỉ chiếm 2,2%.

Vậy 2,2% là nhiều hay là ít. Trên tay tôi có bảng số liệu về tỷ lệ thất nghiệp của 160 quốc gia và vùng lãnh thổ trong giai đoạn 2016-2018. Tỷ lệ thất nghiệp cao nhất thuộc về Syria- 50% vì đang chiến tranh, thấp nhất thuộc về Căm pu chia với 0,5%. Trong số 160 nước thì khoảng 20 nước có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn 20%; 25 nước nằm trong khoảng 10-20%, 60 nước nằm trong khoảng 5-10%. Việt Nam đứng thứ 8 trong số các nước có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất là 2,2%, tức là lọt vào top 5% của các nước và vùng lãnh thổ. Vậy thì hơn 1 triệu người thất nghiệp và tỷ lệ 2,2% là con số không nhiều so với lực lượng lao động nước ta.

leftcenterrightdel
Cho dù thiếu hụt lao động nhưng vẫn có thất nghiệp (ảnh minh họa) 

Con số hơn 1 triệu lao động thất nghiệp so với 55 triệu lao động nước ta có thể không nhiều. Nhưng trong bối cảnh vẫn còn người thất nghiệp thì có nên nâng tuổi nghỉ hưu? 

Bạn nên nhớ rằng trong thị trường lao động, cho dù số việc làm tạo ra lớn hơn số lao động hiện có thì vẫn có người thất nghiệp, tức là cho dù thiếu hụt lao động nhưng vẫn có thất nghiệp.

Nhật Bản công bố cứ 4 vị trí việc làm trống cần tuyển người thì chỉ có một ứng viên, nhưng tỷ lệ thất nghiệp của Nhật Bản năm 2018 vẫn là 2,4%. Lý do là trong thị trường lao động, bao giờ cũng có người mới bước vào thị trường cần thời gian tìm việc; có người đang làm việc muốn chấm dứt hợp đồng để tìm việc tốt hơn, có doanh nghiệp thu hẹp sản xuất, giải thể, phá sản, ngừng kinh doanh và sa thải lao động. Trong pháp luật lao động của chúng ta cũng có các quy định về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, chính sách đối với người lao động mất việc làm và hỗ trợ tìm việc làm mới

Ngay cả khi tỷ lệ thất nghiệp cao hơn tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam, nhiều nước vẫn thiếu hụt lao động, đã nâng tuổi nghỉ hưu  và vẫn phải hợp tác, tuyển dụng lao động nước ngoài. Thí dụ, tỷ lệ thất nghiệp của Hàn Quốc là 4,9%; Nhật Bản là 2,4%; %; Đài Loan là 3,7%;  Đức là 3,3%; Rumania là 4%; Nga là 6%; Slovakia là 6.6 đều cao hơn Việt Nam, có tuổi nghỉ hưu cao hơn Việt Nam và vẫn đang nhận rất nhiều lao động các nước, trong đó có lao động Việt Nam.

Các nước này đều trong giai đoạn dân số già và đã điều chỉnh tuổi nghỉ hưu. Tổ chức Lao động quốc tế khuyến cáo rằng các quốc gia - để ứng phó với già hóa dân số thì phải điều chỉnh tuổi nghỉ hưu, điều chỉnh ngay từ khi dân số vàng chứ đừng đợi khi dân số đã già, vì đây là công việc lâu dài, cần một lộ trình dài hạn chứ không phải là công việc của 3-5 năm; và sẽ phải trả  giá đắt nếu quá chậm điều chỉnh.

Tình hình của ta thì sao? 15 năm trước, mỗi năm lực lượng lao động Việt Nam tăng thêm 1, 2 triệu người, tức là số vào tuổi lao động nhiều hơn số ra khỏi tuổi lao động 1,2 triệu người. 5 năm gần đây, mỗi năm chỉ tăng thêm 400 nghìn người, tức là chỉ bằng 1/3 so với 15 năm trước. Tốc độ già hóa của dân số Việt Nam rất nhanh nên để ứng phó với dự thiếu hụt lao động trong tương lai thì cần phải điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu ngay từ bây giờ trước khi quá chậm.

 Cũng có băn khoăn rằng tuổi thọ của Việt Nam thì cao nhưng số năm sống khỏe mạnh thấp, có người chưa kịp nhận sổ hưu thì đã từ trần và thiết kể tuổi nghỉ hưu thế nào để đừng xảy ra tình trạng như vậy. Ý kiến của Thứ trưởng về vấn đề này như thế nào?

Như tôi đã nói, khi nhận định thì nên dựa vào bằng chứng và số liệu có nguồn gốc cụ thể.

Một là về tuổi thọ khỏe mạnh. Tôi sẽ nói về số liệu do Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đưa ra. WHO là tổ chức đưa ra khái niệm tuổi thọ khỏe mạnh khi sinh- tức là số năm sống khỏe mạnh trung bình trên đời của một đứa trẻ mới sinh; và tuổi thọ khỏe mạnh tại một độ tuổi nào đó- thí dụ 60- là số năm sống khỏe mạnh trung bình sau tuổi 60.

Tuổi thọ khỏe mạnh hay số năm sống trung bình khỏe mạnh được WHO tính dựa trên 136 yếu tố, từ các chỉ tiêu kinh tế, dân số, lao động, tài chính và nhân lực cho y tế, tiếp cận dịch vụ y tế, nước sạch, vệ sinh môi trường, loại trừ bệnh dịch, tiêm chủng mở rộng, mức độ suy dinh dưỡng, độ bao phủ của bảo hiểm y tế , chiến lược bảo vệ sức khỏe nhân dân v.v… chứ không chỉ đơn thuần là một vài chỉ tiêu như an toàn thực phẩm, ô nhiễm môi trường.

Nhiều người lo ngại rằng mặc dù tuổi thọ của Việt Nam tăng nhưng số năm sống khỏe mạnh sau tuổi 60 là thấp. Nhận định đó là sai lầm vì theo công bố của Tổ chức Y tế thế giới,  tuổi thọ khỏe mạnh của người Việt Nam là rất đáng tự hào.

Trong xếp hạng về số năm sống khỏe mạnh sau tuổi 60 của 183 nước do WHO công bố năm 2016, Singapore đứng đầu tiên với 22 năm, thấp nhất là Sierra Leone với 10,3 năm, Việt Nam là 17,2 năm.

Theo bảng xếp hạng này, Việt Nam xếp sau 40 nước và đứng trên 142 nước; trong khu vực châu Á, Việt Nam đứng thứ 5 sau 4 nước là Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Israel và cao hơn 41 nước; trong khu vực Asean, Việt Nam chỉ sau Singapore còn cao hơn tất cả các nước còn lại. Nhắc lại, đây là số liệu của Tổ chức Y tế thế giới, không phải của tôi.

Đây là thành tựu tuyệt vời của sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân của Đảng và Nhà nước ta, và cần phải tự hào về điều đó. Đừng tự ti khi cho rằng tuổi thọ khỏe mạnh của Việt Nam thấp.

Hai là lo ngại rằng có người chưa cầm sổ hưu thì đã từ trần. Đúng là không ai mong muốn có người chưa nhận sổ hưu thì đã từ trần, nhưng chẳng ai cưỡng được điều đó. Trong các chỉ tiêu tính toán về mức độ chết của dân cư mà cả thế giới đang dùng đều có tỷ lệ chết dưới 1 tuổi, tỷ lệ chết dưới 5 tuổi, tỷ lệ chết tại từng độ tuổi hay nhóm tuổi nào đó- tức là trong số những người chết trong năm thì gần như độ tuổi nào cũng có. Vì vậy, ngay cả khi ta quy định tuổi nghỉ hưu là 40 tuổi hoặc thấp hơn thì cũng có rất nhiều người chưa đến độ tuổi đó cũng đã chết. Mong muốn quy định tuổi nghỉ hưu để ai cũng được cầm sổ nghỉ hưu trước khi chết là mong muốn không tưởng và không có nước nào làm được.

Vậy là đã rõ, số năm sống khỏe mạnh của Việt Nam là không hề thấp theo công bố của Tổ chức Y tế thế giới. Cũng có những ý kiến cho rằng những ngành nghề đặc thù như giáo viên mầm non, tiểu học, công nhân trực tiếp sản xuất khó có thể làm đến độ tuổi nghỉ hưu; hoặc những ngành nghề kéo dài chỉ giúp cho công chức giữ ghế… Vấn đề này nên xử lý thế nào?

Đây quả thực là một thách thức, nhưng xin nói ngắn gọn thế này. Một là cải cách chính sách BHXH, trong đó có tuổi nghỉ hưu đòi hỏi một quyết tâm chính trị rất lớn, được sự đồng thuận của phần lớn người lao động và doanh nghiệp; và tất nhiên không thể hài lòng tất cả. Hai là luôn có những trường hợp ngoại lệ đòi hỏi phải có phương thức xử lý phù hợp để vượt qua được những đặc thù không mong muốn.

Cá nhân tôi cho rằng nếu nói về đặc thù thì không phải chỉ có Việt Nam có lao động đặc thù mà nước nào cũng có.

Chẳng hạn đối với giáo viên mầm non, tiểu học. Phải chăng chỉ Việt Nam mới có giáo viên mầm non nói riêng và giáo viên nói chung mà các nước trên thế giới không có, và chỉ trẻ em Việt Nam thích giáo viên trẻ còn trẻ em các nước thì không ? Họ xử lý vấn đề này thế nào? Nhiều nước quan niệm rằng trong trường học còn nhiều vấn đề cần giải quyết ngoài chuyện dạy chữ, thí dụ có trẻ tăng động, có trẻ tự kỷ, có trẻ khiếm khuyết về ngôn ngữ, có trẻ hạn chế về năng lực tư duy, có trẻ mà bố mẹ có khó khăn phải gửi con sớm hoặc đón con muộn, hoặc cần gửi con theo giờ giấc linh hoạt hơn phù hợp với điều kiện làm việc của mình. Các giáo viên lớn tuổi có giúp xử lý được các vấn đề này không khi mà họ có đủ kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệp và nếu cần đào tạo, bồi dưỡng thêm cho họ để đảm nhận được công việc. Ngành giáo dục phải vào cuộc, bố trí lại lao động, tổ chức lại công việc, đáp ứng nhu cầu đa dạng của trẻ và gia đìnhtrẻ, và cũng là thúc đẩy chất lượng giáo dục tốt lên.

Hoặc đối với công nhân trực tiếp sản xuất, có những lo ngại khi lớn tuổi năng suất lao động không cao, doanh nghiệp không muốn sử dụng mà thay vào đó là sử dụng lao động trẻ. Phần lớn các nước, lao động trực tiếp sản xuất vẫn là đông đảo nhất. Họ xử lý thể nào?  Đối với doanh nghiệp điều quan tâm là chi phí. Chính sách Bảo hiểm thất nghiệp không chỉ hỗ trợ người lao động khi bị thất nghiệp mà phải hỗ trợ doanh nghiệp duy trì việc làm, tránh sa thải lao động. Liệu Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp có hỗ trợ tài chính để sắp xếp, bố trí lại lao động, tiếp tục sử dụng lao động trung niên và cao tuổi như hỗ trợ một phần tiền lương hoặc đóng BHXH cho những lao động này để giảm chi phí cho doanh nghiệp như nhiều  nước vẫn làm chẳng hạn. Tất nhiên là không hỗ trợ tràn lan mà phải có điều kiện. Người lao động lớn tuổi có thể chậm chạp hơn, năng suất thấp hơn, nhưng doanh nghiệp giảm được chi phí thì chắc vẫn sử dụng, đặc biệt trong bối cảnh lao động khan hiếm. Chúng tôi có tính là hiện nay Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp kết dư khoảng 70.000 tỷ; chẳng hạn nếu mỗi lao động thuộc nhóm tuổi cao được hỗ trợ 500.000 đồng một tháng hoặc 6 triệu đồng một năm, thì chỉ cần 3.000 tỷ hỗ trợ từ Quỹ đã có thể giúp cho nửa triệu lao động tiếp tục làm việc; mà tiếp tục làm việc là tiếp tục tạo ra hàng hóa, dịch vụ, giúp cho sự tăng trưởng của đất nước.

Về bản chất, Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp là sự chia sẻ giữa doanh nghiệp lớn, thuận lợi với doanh nghiệp nhỏ rất khó khăn, giữa người lao động ở các ngành nghề ổn định, ít nguy cơ mất việc làm với người lao động ở các nghề nhiều rủi ro mất việc làm. Hỗ trợ này theo hướng thực chất là tạo sự gắn kết xã hội giữa cộng đồng người lao động với nhau, giữa cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam với nhau qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Hoặc đối với các công chức lãnh đạo ở các cơ quan quản lý nhà nước. Nhiều lo ngại rằng nâng tuổi nghỉ hưu dẫn đến thời gian giữ chức khá lâu, kém năng động, hiệu quả công việc không cao. Vậy thì chính sách cán bộ cần được sửa đổi, liệu có nên có quy định chỉ giữ chức Vụ trưởng, Cục trưởng, thậm chí Thứ trưởng chỉ nên đến 60 tuổi thôi, hai năm còn lại không giữ chức mà có nghĩa vụ chuyển giao kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm cho cán bộ trẻ, giữ cho sự liền mạch của các chính sách trong lĩnh vực phụ trách trước đây. Trong nhiều bài học thành công của Nhật Bản thì có bài học là lớp người lao động lớn tuổi chuyển giao lại kinh nghiệm, kỹ năng, cách ứng xử cho lớp lao động trẻ.

Vậy theo Thứ trưởng, nâng tuổi nghỉ hưu có phải là người già chiếm chỗ của người trẻ?

Cũng có người hiện đang lo ngại như vậy. Nhưng phải trở lại lý do đầu tiên khi đề xuất nâng tuổi nghỉ hưu, đó là để ứng phó với quá trình già hóa dân số. 5 năm gần đây, mỗi năm lực lượng lao động chỉ tăng 400 nghìn người, sau 15 năm nữa, khi chúng ta chưa kết thúc lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu thì mỗi năm chỉ tăng 200 nghìn người hoặc là ít hơn sau đó. Tức là khan hiếm và thiếu hụt lao động là nguy cơ rõ ràng.

Câu hỏi đầu tiên của bạn tôi đã trả lời là số lượng người thất nghiệp của ta là không nhiều nếu so với dân số, tỷ lệ thất nghiệp của ta rất thấp so với mặt bằng chung của thế giới, dòng chảy của thị trường lao động là bình thường khi vẫn duy trì được số lượng và tỷ lệ thất nghiệp này mặc dù hàng năm lực lượng lao động vẫn tăng thêm 400 ngàn người và sinh viên tốt nghiệp các trường vẫn bổ sung vào lực lượng lao động. Các số liệu và thực tế này cho thấy người già không hề chiếm chỗ của người trẻ.

Xin trân trọng cám ơn Thứ trưởng về cuộc trao đổi này!

 


Theo báo Dân sinh