(BVPL) - Ngày 9.6, Quốc hội đã nghe Bộ trưởng Bộ tư pháp Hà Hùng Cường, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo kết quả lấy ý kiến nhân dân và dự kiến tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) và Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của Quốc hội Phan Trung Lý trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi).

 


Nâng thời hiệu chia di sản thừa kế lên 30 năm đối với bất động sản

Báo cáo thẩm tra cũng nêu rõ về thời hiệu thừa kế, Điều 639 dự thảo BLDS (sửa đổi) thiết kế hai phương án về nội dung này như sau: “Phương án 1: 1. Thời hiệu để những người thừa kế yêu cầu chia di sản là ba mươi năm đối với bất động sản, mười năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Phương án 2: 1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. 2. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.

Đa số thành viên Ủy ban pháp luật tán thành phương án 1 vì các lý do sau: thứ nhất, dự thảo đã nâng thời hiệu chia di sản thừa kế lên 30 năm đối với bất động sản và 10 năm đối với động sản để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người thừa kế hợp pháp, đồng thời cũng vẫn quy định một giới hạn thời gian nhất định để người thừa kế thực hiện quyền của mình, bảo đảm ổn định trật tự xã hội và phù hợp với tính chất của di sản thừa kế; thứ hai, dự thảo đưa ra các phương án ưu tiên trong việc xác lập quyền sở hữu di sản thừa kế khi hết thời hiệu chia thừa kế, lần lượt là người thừa kế đang quản lý di sản, người đang chiếm hữu một cách ngay tình, liên tục, công khai hoặc nếu không có người chiếm hữu đủ các điều kiện này thì di sản sẽ thuộc về Nhà nước.

Quy định này góp phần giải quyết các vướng mắc trong thực tế khi pháp luật hiện hành bỏ ngỏ việc xử lý quyền sở hữu đối với di sản thừa kế khi hết thời hiệu chia thừa kế.

Sẽ có hệ lụy từ việc chuyển đổi giới tính

Về việc chuyển đổi giới tính (khoản 2 Điều 36 dự thảo Bộ luật), báo cáo của Chính phủ về kết quả lấy ý kiến nhân dân và tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Bộ luật trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội có nêu hai loại ý kiến khác nhau. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, với vị trí, vai trò là luật chung, luật nền của hệ thống pháp luật dân sự thì Bộ luật dân sự cần có quy định về việc chuyển đổi giới tính để làm cơ sở cho luật khác quy định cụ thể về điều kiện, trình tự, thủ tục chuyển đổi giới tính khi cần thiết. Loại ý kiến thứ hai cho rằng, trong điều kiện kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay và để tránh những hệ lụy tiêu cực về nhiều mặt đối với chính bản thân người chuyển đổi giới tính và xã hội thì Nhà nước không nên thừa nhận quyền chuyển đổi giới tính.

Chính phủ có 2 phương án: “Phương án 1: Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của Luật. Phương án 2: Nhà nước không thừa nhận việc chuyển đổi giới tính. Chính phủ đã nhất trí theo Phương án 1 nêu trên.

Về vấn đề này, báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tư pháp Quốc hội nêu rõ: “Về khoản 2 Điều 36 quy định về việc chuyển đổi giới tính theo hướng: “Nhà nước không thừa nhận việc chuyển đổi giới tính. Trường hợp cá nhân đã chuyển đổi giới tính thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay đổi hộ tịch và có các quyền nhân thân khác theo quy định tại khoản 1 Điều này”. Ủy ban pháp luật xin báo cáo như sau: việc thừa nhận hay không thừa nhận việc chuyển đổi giới tính không chỉ liên quan đến quyền nhân thân của một cá nhân, mà kèm theo đó là rất nhiều vấn đề xã hội phát sinh, chẳng hạn như hành lang pháp lý cho việc áp dụng các biện pháp y học để chuyển đổi giới tính, vấn đề công nhận hôn nhân đồng giới, sự phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và truyền thống, phong tục, tập quán của Việt Nam...”.

Báo cáo thẩm tra cho rằng, vấn đề này cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, thận trọng. Dự thảo Bộ luật một mặt quy định Nhà nước không thừa nhận việc chuyển đổi giới tính, nhưng mặt khác lại quy định quyền của người đã chuyển đổi giới tính được yêu cầu cơ quan nhà nước thay đổi hộ tịch và có các quyền nhân thân khác có liên quan. Như vậy, nếu việc chuyển đổi giới tính đã được thực hiện thì các hệ quả phát sinh lại được pháp luật tôn trọng và bảo hộ.

Ủy ban pháp luật cho rằng đây là vấn đề hết sức nhạy cảm trong xã hội, nếu đã không thừa nhận việc chuyển đổi giới tính thì cũng không cho phép được thay đổi hộ tịch và các quyền nhân thân khác theo giới tính mới. Vì vậy, đề nghị nghiên cứu, giải trình rõ quy định này.

Không tán thành việc hạn chế về cách đặt tên

Báo cáo do Bộ trưởng Bộ Tư pháp nêu rõ về quyền đối với họ, tên (Điều 26 dự thảo Bộ luật), vấn đề đặt tên (bao gồm cả chữ đệm, nếu có), có nhiều ý kiến đề nghị bổ sung nội dung tên của công dân Việt Nam và người không quốc tịch thường trú tại Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam, không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ và họ, tên của một người không được vượt quá số lượng chữ cái nhất định, “Họ, tên của một người không được vượt quá hai mươi lăm chữ cái”.

Về vấn đề này, báo cáo thẩm tra do Chủ nhiệm Ủy ban Ủy ban pháp luật Phan Trung Lý nêu rõ:: Không tán thành quy định tại đoạn thứ 2 khoản 3 Điều 26 “Tên của công dân Việt Nam và người không quốc tịch thường trú tại Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ. Họ, tên của một người không được vượt quá hai mươi lăm chữ cái” vì cho rằng quy định hạn chế về cách đặt tên, độ dài của tên là không cần thiết. Hơn nữa, việc đặt tên bằng số, bằng một ký tự hay quá dài cũng không ảnh hưởng tới quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo làm rõ những nội dung này để bảo đảm thể chế hóa quy định của Hiến pháp về tôn trọng quyền con người, quyền công dân.
 

Đức Thắng

.