(BVPL) - Những năm trước 1975, ở Sài Gòn nổi lên rất nhiều trọc phú, giàu có nức tiếng. Họ không chỉ giàu nhất Sài Gòn mà còn giàu nhất Nam Kỳ lục tỉnh, thậm chí được coi là giàu nhất Đông Dương lúc bấy giờ. Ngày nay, khi nhắc đến những “ông trùm” về tiền của này nhiều người còn phải “ngả mũ kính phục”...

“Ông trùm” từng giàu bậc nhất Sài Gòn

Trong những đại phú hộ ở miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ, giàu nhất miền Nam Kỳ lục tỉnh và cả Đông Dương những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 phải kể đến đầu tiên là Huyện Sỹ. Huyện Sỹ tên thật là Lê Phát Đạt, sinh năm 1841 tại Cầu Kho, Sài Gòn. Quê ông ở Tân An, Long An trong một gia đình theo đạo Công giáo. Ông được các tu sỹ người Pháp đưa sang du học ở Pénang, Malaysia. Ở đây, ông Sỹ được học rất nhiều thứ tiếng: tiếng La tinh, tiếng Pháp, tiếng Hán và tiếng Quốc ngữ. Do tên của ông trùng tên với một người thầy dạy nên người thầy này đã đổi tên Sỹ  thành Lê Phát Đạt. Sau khi về nước, Lê Phát Đạt được Chính phủ Nam Kỳ tuyển dụng làm thông ngôn, rồi từ năm 1880 làm Ủy viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ. Gia sản kếch xù của ông còn để lại cho đời với hai công trình kiến trúc lớn là nhà thờ Huyện Sỹ và nhà thờ Chí Hòa. Người ta ước tính tổng tài sản của ông gấp hàng chục lần số tiền bỏ ra xây dựng hai nhà thờ này. Cháu ngoại ông chính là Hoàng hậu Nam Phương, chính thất của cựu hoàng Bảo Đại.

 

 Nam Phương Hoàng Hậu, cháu của Huyện Sĩ.
Nam Phương Hoàng Hậu, cháu của Huyện Sĩ.


Theo Vương Hồng Sển, một học giả chuyên nghiên cứu về Nam Bộ trong cuốn sách “Sài Gòn năm xưa” thì việc phất lên nhanh chóng của Lê Phát Đạt có không ít yếu tố may mắn: “Tương truyền buổi đầu, Tây mới qua, dân cư tản mác. Thực dân Pháp phát mãi ruộng đất vô thừa nhận, giá bán rẻ mạt mà vẫn không có người đấu giá”. Học giả Vương Hồng Sển giải thích: “Hồi Tây qua, nghe nói lại, những chủ cũ đều đồng hè bỏ đất, không nhìn nhận, vì nhận e nỗi quan và triều đình Huế khép tội theo Pháp. Vả lại, cũng ước ao một ngày kia Tây bại trận rút lui, chừng đó ai về chỗ nấy, hấp tấp làm chi cho mang tội... Không dè bởi đất không ai nhìn nên Pháp lập Hội đồng Thành phố, Ủy ban Điền thổ rồi đưa nhau đi khám xét từng vùng. Đến chỗ nào địa thế tốt, thì những Ủy viên bản xứ nhận là của mình: “Ùy” một tiếng! Đến chỗ nào địa thế xấu thì lắc đầu, tiếp theo nói “Nông” cũng một tiếng! Chung quy chỉ học hai tiếng “Ùy”, “Nông” mà có ông Lê Phát Đạt lập nghiệp truyền tử lưu tôn. Trận bão năm Giáp Thìn, tức năm 1904, đất Gò Công bỏ hoang vô số kể, ai đủ can đảm chịu ra mặt đóng thuế thì làm chủ chính thức, mà có ai thèm đâu...”.

Thế rồi, Hội đồng thành phố nài ép Lê Phát Đạt, ông bất đắc dĩ phải chạy bạc mua liều. Không ngờ vận đỏ, ruộng trúng mùa liên tiếp mấy năm liền. Ông trở nên giàu có nhanh chóng. Mặc dù giàu có như vậy, nhưng trong nhà ông Lê Phát Đạt vẫn có treo câu đối sau: “Cần dữ kiệm, trị gia thượng sách/Nhẫn nhi hòa, xử thế lương đồ”.

Đến nay, các cụ cao niên tại Huế và Sài Gòn vẫn còn lưu truyền giai thoại về gia đình Huyện Sỹ giàu có gấp nhiều lần so với vua Bảo Đại. Vậy nên, mới có câu chuyện là vào năm 1934, nhân dịp gả cô cháu gái Nguyễn Hữu Thị Lan về Huế làm Hoàng hậu, Lê Phát Đạt đã tặng cho Nguyễn Hữu Thị Lan 20.000 lượng vàng để làm của hồi môn. Số vàng này đã khiến cả triều đình vua Bảo Đại phải kinh ngạc trước mức độ giàu có của gia đình Huyện Sỹ.

Không chỉ có thế, một số sử liệu còn đề cập tới khối tài sản của Huyện Sỹ phải kể đến là khối tài sản của các con ông. Như bà Lê Thị Bính (mẹ của Nam Phương Hoàng hậu). Riêng Trưởng nam của Huyện Sỹ là Lê Phát An được vua Bảo Đại phong tước An Định Vương. Ông Lê Phát An là người duy nhất trong lịch sử Nam Kỳ thuộc hàng dân dã, không là “hoàng thân, quốc thích” được lên ngôi vị cao quý nhất của triều đình…

Hiện nay, tại đường Tôn Thất Tùng (quận 1, TP. Hồ Chí Minh) vẫn còn lưu dấu ấn về sự giàu có của Huyện Sỹ Lê Phát Đạt, đó là nhà thờ Huyện Sỹ, nằm ngay tại số 1 trên đường Tôn Thất Tùng. Ông Nguyễn Văn Bắc (73 tuổi, ngụ trên đường Tôn Thất Tùng), cho hay: “Tôi được ông nội kể lại rằng ngôi nhà thờ này đã được ông Huyện Sỹ hiến đất và xuất 30 ngàn đồng bạc Đông Dương trong gia tài đồ sộ của mình để xây dựng. Nhà thờ được khởi công xây dựng năm 1902 theo thiết kế của linh mục Bouttier. Đến năm 1905 thì nhà thờ được khánh thành. Nhà thờ tọa lạc trên một khu đất cao và rộng hơn một mẫu, nằm ở góc đường Frère Louis, nay là đường Tôn Thất Tùng…”.

Ông Huyện Sỹ qua đời năm 1900, khi nhà thờ chưa xây dựng xong. Về sau, khi vợ ông là bà Huỳnh Thị Tài mất năm 1920, người ta mới đưa hai ông bà chôn ở gian chái sau của nhà thờ này. Tại gian chái bên trái là tượng bán thân ông Huyện Sỹ bằng thạch cao gắn cột đầu, phía sau là phần mộ bằng đá Cẩm Thạch được trang trí hoa văn. Trên mộ là tượng toàn thân ông Huyện Sỹ kê đầu trên hai chiếc gối bằng đá Cẩm Thạch được điêu khắc tinh xảo, đầu chít khăn đóng quay về cung thánh nhà thờ, mình mặc áo dài gấm hoa văn tinh xảo, hai tay đan vào nhau trước ngực, chân đi giày. Đối diện bên phải là tượng vợ ông là bà Huỳnh Thị Tài với tóc búi cũng dựa trên hai chiếc gối, hai tay nắm trước ngực, mặc áo dài gấm, chân mang hài. Cho đến nay, công trình này vẫn được xem là một điểm đến thu hút khách du lịch muốn tìm hiểu về cuộc đời của một trong những đại gia giàu có bậc nhất đất Sài Gòn xưa.

Người tinh ranh, ma mãnh bậc nhất một thời

Theo sử liệu thì Phương Nhì tên là Đỗ Hữu Phương (1841 – 1914), sinh tại Chợ Đũi, Sài Gòn. Ông được Pháp phong chức Tổng đốc nên nhiều người vẫn quen gọi ông là Tổng đốc Phương. Có chức vụ, Đỗ Hữu Phương đã tận dụng những mối quan hệ thân cận với chính quyền Pháp để làm giàu một cách nhanh chóng thông qua sự tín nhiệm của thực dân lúc bấy giờ. Nhờ thế, sự nghiệp của ông trở nên đồ sộ bậc nhất nhì ở Sài Gòn.

Đỗ Hữu Phương là một người hết sức khôn ngoan. Ông được chính quyền Pháp tín nhiệm và cho đảm nhiệm nhiều chức vụ khác nhau trong bộ máy chính quyền của thực dân Pháp. Theo một số tài liệu còn ghi lại thì năm 1859, quân Pháp tiến đánh Gia Định, Đỗ Hữu Phương lên Bà Điểm, Hóc Môn lánh thân và chờ thời. Sau khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ vào năm 1861, Đỗ Hữu Phương nhờ cai tổng Đỗ Kiến Phước ở Bình Điền dẫn về giới thiệu với Francis Garnier, lúc bấy giờ đang làm tham biện hạt Chợ Lớn và được nhận làm cộng sự.  

Khi chiến tranh xảy ra, Đỗ Hữu Phương tỏ ra ranh mãnh hơn khi trực tiếp tham gia “dẹp loạn”, tỏ rõ cho Pháp biết sự trung thành của mình. Vào tháng 7/1867, Đỗ Hữu Phương được bổ nhiệm làm Đốc phủ sứ Vĩnh Long. Đến năm 1872, Đỗ Hữu Phương lại được cất nhắc làm hội viên Hội đồng thành phố Chợ Lớn; đến năm 1879, làm phụ tá Xã Tây Chợ Lớn cho Antony Landes…

Sau đó, nhờ thành tích và được lòng quan trên, Đỗ Hữu Phương ngày càng được tín nhiệm hơn và cũng vì thế mà khối tài sản của ông ngày một giàu thêm. Được thưởng tam đẳng Bắc đẩu bội tinh, thăng Tổng đốc hàm và tiếp tục nhận được nhiều ưu đãi khác. Trong tài liệu của Pháp mang ký hiệu SL. 312 ở Cục lưu trữ Nhà nước II, có đoạn khen ngợi Đỗ Hữu Phương như sau: “Phương tích cực phục vụ cho sự nghiệp của nước Pháp, không chỉ với khả năng quân sự mà còn với sự hiểu biết tường tận về xứ này, đặc biệt là Chợ Lớn. Và cả với sự khôn khéo, Phương đã nhiều lần thuyết phục dụ hàng những đồng bào của ông ta”.

Theo học giả Vương Hồng Sển thì sự giàu có của Đỗ Hữu Phương không chỉ gắn liền với sự thăng quan tiến chức của ông ta trong chính quyền thực dân mà còn nhờ ở người vợ rất đảm đang họ Trần. Sự nghiệp của Đỗ Hữu Phương trở nên đồ sộ nhất nhì trong xứ cũng một phần là do tay phu nhân Trần thị gây dựng.

Vương Hồng Sển cũng tả lại phút giã từ trần thế của vị Tổng đốc này như sau: “Khi Ðỗ Hữu Phương mất, gia đình tổ chức đám tang rất trọng thể. Thi hài của Đỗ Hữu Phương được tại thế nửa tháng mới chôn. Hàng ngày có hàng trăm khách viếng. Tang gia cho mổ trâu, bò, heo liên miên cúng và đãi khách”.
 

Mai Phong

.