(BVPL)-Ngày 28/7/2017, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ký ban hành Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC quy định về phòng xử án (sau đây gọi tắt là Thông tư 01/2017) và nhận được sự ủng hộ nhiệt liệt đa số từ phía giới Luật sư – những người đang kỳ vọng rất lớn vào sự công bằng trong quá trình tham gia tố tụng vì đang bị thuyết phục rằng có chỗ ngồi, sẽ có sự công bằng. Nếu thế thì hóa ra, từ trước tới giờ, bao quy định, bao định hướng, bao cố gắng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân vì một nền tư pháp trong sạch, công bằng lại không thể so với một văn bản dưới luật (Thông tư đơn ngành)  quy định về bố trí, sắp xếp vị trí, chỗ ngồi trong phòng xử án? 

 

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.
 
Khó hiểu hơn, nếu sự công bằng trong xét xử được bảo đảm chỉ bằng một chỗ ngồi, thì tại sao, trải qua chiều dài lịch sử nền tư pháp xã hội chủ nghĩa hàng chục năm như vậy, đến thời điểm này ngành Tòa án mới ban hành Thông tư để thực hiện điều đó. Động thái này khác nào khẳng định, từ trước tới giờ nền tư pháp của chúng ta không có sự công bằng? Và nếu có, tại sao giới luật sư lại bị thuyết phục rằng, sự công bằng trong cả quá trình tố tụng cũng như khi tham gia phiên tòa của họ không được bảo đảm và họ cần phải đấu tranh, đấu tranh để giành quyền bình đẳng với đại diện VKS giữ quyền công tố trước Tòa, tất cả quy về một mối, hai chữ công bằng. Nhưng điều đáng suy nghĩ ở chỗ, họ đang bị định hướng về một lẽ công bằng khác xa về bản chất chân chính của hai từ công bằng. Nói cách khác, lẽ công bằng trong mắt họ đã bị bóp méo, và họ chấp nhận thỏa hiệp, dừng lại với công thức công bằng = công bằng trong phòng xử án = chỗ ngồi. Đến thời điểm này, chính những người đang hàng ngày hàng giờ bảo vệ lẽ phải đang thắc mắc, phải chăng chúng ta đang hiểu sai về ý nghĩa đích thực của hai chữ “công bằng?” Phải chăng phạm trù của công bằng lại hẹp đến như vậy?
 
Công bằng có thật sự là công bằng?
 
Ai cũng hiểu, công bằng mà giới luật sư, người dân, và kể cả những người đang làm công tác pháp luật đấu tranh, chờ đợi, cống hiến, bảo vệ cao hơn, xa hơn và rộng hơn phạm vi của vị trí ngồi trong phòng xử án. Điều cốt lõi để đạt tới sự công bằng trong suốt quá trình tố tụng cũng như khi tham gia phiên tòa chính là pháp luật, sự tôn trọng, tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật từ các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng mới là bảo đảm tốt nhất cho công bằng tồn tại. Chúng ta đấu tranh vì một nền tư pháp trong sáng, vì mục tiêu cuối cùng, đó là duy trì sự công bằng trong tất cả các hoạt động tư pháp. Không phải tự nhiên mà một bộ máy quyền lực nhà nước luôn đi kèm hệ thống các cơ quan giám sát của Nhân dân và hệ thống các cơ quan kiểm tra trong nội bộ các cơ quan quyền lực nhà nước, một trong những mục tiêu hàng đầu là để bảo đảm sự công bằng, khách quan trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước. Xuất phát từ quan điểm này, người viết bài cho rằng, công bằng dành cho giới luật sư tham gia với vai trò là người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, hay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố trong quá trình tố tụng và khi tham gia phiên tòa không thể dừng lại ở chỗ ngồi của họ trong phòng xử án. Mà rộng hơn thế, là sự bảo đảm của các cơ quan tiến hành tố tụng từ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án đối với quyền và nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng. Chỉ cần mỗi cơ quan tiến hành tố tụng tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật, tạo điều kiện cho luật sư khi tham gia tố tụng hoàn thành các quyền và nghĩa vụ của họ, đó chính là công bằng. Vậy mà chẳng hiểu sao, lẽ công bằng lại bị thu hẹp chỉ bằng chỗ ngồi trong phòng xử án? Thiết nghĩ, thay vì đầu tư vào việc quy định sắp xếp chỗ ngồi trong phòng xử án, chúng ta nên tập trung xây dựng quy cách làm việc khách quan, vô tư, công minh, chỉ tuân theo pháp luật sẽ đem lại hiệu quả tốt hơn rất nhiều đối với hoạt động xét xử. 
 
Quay trở lại vấn đề công bằng, các luật sư đấu tranh để ngồi ngang hàng với đại diện VKS trong phòng xử án, đứng dưới góc độ quan điểm của họ, không hề sai và về phía các Kiểm sát viên làm công tác thực hành quyền công tố mà nói, cũng không có gì khiến họ khó chịu, bởi dù ngồi ở đâu, trong điều kiện nào, Kiểm sát viên với nhiệm vụ thực hành quyền công tố và luật sư với vai trò người bào chữa, người bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự đều thực hiện những sứ mệnh mà pháp luật trao cho họ, với mục đích cuối cùng là duy trì và bảo vệ công lý. Tuy nhiên, xuất phát từ góc độ các quy định của Hiến pháp và pháp luật, đại diện VKS tham gia phiên tòa không chỉ với vai trò là người nhân danh Nhà nước thực hành quyền công tố mà còn nhân danh Nhà nước thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, với tư cách này, đại diện Viện kiểm sát nhân danh Nhà nước làm công tác giám sát sự tuân thủ pháp luật trong suốt quá trình diễn ra phiên tòa, vậy, vị trí của họ ở đâu? Khi đối tượng chịu sự giám sát của họ ngoài người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự và những người tham gia tố tụng khác còn có cả Hội đồng xét xử? Có bảo đảm được công bằng không khi những người nhân danh Nhà nước, đại diện cho Nhân dân thực hiện quyền giám sát phiên tòa lại phải ngồi thấp hơn Hội đồng xét xử?, thậm chí, còn thấp hơn cả Thư ký Tòa án. 
 
Văn bản quy phạm có thực sự vì cái chung?
 
Sự bất hợp lý nêu trên của Thông tư 01/2017 bắt nguồn từ tư tưởng định hướng trong quá trình xây dựng Thông tư, bởi quan điểm cho rằng Hội đồng xét xử là trung tâm của hoạt động xét xử, là trung tâm của quyền lực tư pháp, có quyền quyết định mọi thứ trong phạm vi phòng xử án. Tại sao như vậy? Trước hết, cần phải nhìn nhận lại vai trò của những người tham gia phiên tòa, từ Kiểm sát viên làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố, luật sư tham gia với vai trò người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự cũng như những người tham gia tố tụng khác. Mọi hoạt động của các chủ thể này đều phải được sự chấp thuận của Hội đồng xét xử, và chịu sự chi phối tuyệt đối của Hội đồng xét xử, phụ thuộc vào mọi quyết định của Hội đồng xét xử. Như vậy, sẽ có 2 hậu quả xảy ra:
 
- Thứ nhất, nếu Hội đồng xét xử làm việc công minh, khách quan, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, yếu tố công bằng sẽ được bảo đảm;
 
- Thứ hai, nếu Hội đồng xét xử không đáp ứng được các yêu cầu về độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, tất yếu lẽ công bằng sẽ không bao giờ tồn tại.
 
Từ chỗ xác định Tòa án là trung tâm của mọi hoạt động diễn ra trong phiên tòa, Hội đồng xét xử, rộng hơn là Tòa án, đang tự cho mình quyền uy tuyệt đối trong quá trình xét xử, coi nhẹ vai trò giám sát mà Nhân dân trao cho các chủ thể khác, trong đó có đại diện Viện kiểm sát làm nhiệm vụ kiểm sát hoạt động xét xử. Có ai tự hỏi, ở một nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, mà đại diện cho Nhân dân thực hiện quyền giám sát, kiểm soát quyền lực tư pháp của Hội đồng xét xử trong phiên tòa lại ngồi ở vị trí thấp hơn Hội đồng xét xử? Trong khi chính Nhân dân là chủ nhân chân chính của quyền lực nhà nước và Hội đồng xét xử nói riêng, Tòa án nhân dân nói chung là chủ thể được Nhân dân trao quyền, thay mặt Nhân dân đưa ra phán quyết.
 
Bên cạnh đó, Thông tư 01/2017 đang tạo nên những hiểu lầm cơ bản của giới luật sư, khi họ cho rằng cuối cùng công bằng đối với họ đã được Tòa án xét đến, chỉ với một chỗ ngồi, trong khi, điều cơ bản mà họ cần đến là sự tuân thủ, tôn trọng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đối với quyền và nghĩa vụ của họ. Và điều đáng nói là, chủ thể mà họ ngỡ rằng luôn đối nghịch với họ - các Kiểm sát viên lại chính là những người giám sát việc bảo đảm thực thi các quyền của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, đương sự trong suốt quá trình tố tụng cũng như khi tham gia phiên tòa. Trong khi, một cách gián tiếp, các Kiểm sát viên làm nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tư pháp lại là một trong những bảo đảm mà Nhân dân, Nhà nước và pháp luật dành cho họ, tạo điều kiện, hỗ trợ cho họ thực thi quyền và nghĩa vụ của mình. 
 
Xét cho cùng, quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, đương sự là quyền xuất phát từ quyền của bị can, bị cáo, người bị hại, đương sự, vai trò của họ khi tham gia tố tụng chỉ nhằm mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, người bị hại, đương sự. Từ góc độ này, có thể thấy, vị trí ngồi của họ khi tham gia phiên tòa không thể ngồi trên bị cáo, người bị hại, đương sự, trong khi, Thông tư 01/2017 lại bố trí vị trí của họ hoàn toàn không phù hợp với vai trò mà họ đảm đương khi tham gia phiên tòa. Vậy các luật sư đang làm gì? đấu tranh vì cái gì? Vì chỗ ngồi, nhưng chỗ ngồi thì có liên quan gì tới bị cáo, người bị hại, đương sự, những thân chủ mà họ đang chịu trách nhiệm bảo vệ? Chỗ ngồi của họ có giúp thân chủ của họ tăng thêm khả năng được gỡ tội hay được bảo vệ hay không? Các luật sư đấu tranh vì quyền lợi của mình hay vì quyền lợi của thân chủ? 
 
Về phía Tòa án, việc sắp xếp chỗ ngồi của các bên trong phòng xử án về cơ bản chẳng hề ảnh hưởng đến diễn biến phiên tòa cũng như thẩm quyền của Tòa án, nên việc ban hành một Thông tư chưa phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức VKSND năm 2014 và các đạo luật lớn của nhà nước như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự và Luật tố tụng hành chính năm 2014 là điều vô cùng dễ hiểu. Có sao đâu nếu Thông tư này góp phần hạn chế bớt tầm quan trọng của chủ thể có khả năng giám sát hoạt động của họ và tăng cường vai trò quyết định tuyệt đối trong các phiên tòa cho họ?...
 
 Mô hình phòng xử án theo quy định của Thông tư 01/2017 – con đường ngắn đến với lẽ công bằng?
 
Không chỉ giới luật sư mà có cơ số người cũng có quan niệm rằng đổi mới hình thức bố trí mô hình phòng xử án là con đường ngắn đi đến với lẽ công bằng trong xét xử, mà quên mất cơ sở bảo đảm cho sự tồn tại và duy trì của công bằng chính là địa vị của pháp luật trong nhà nước và xã hội. Một xã hội sống, học tập, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là môi trường tốt nhất cho sự tồn tại của lẽ công bằng và công cụ để duy trì sự ổn định, công bằng trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội chính là pháp luật. Trên cơ sở ấy, pháp luật có địa vị chân chính hay không, lại phụ thuộc vào chính những người đang thực thi pháp luật, thái độ tôn trọng pháp luật, thượng tôn pháp luật khi thực thi nhiệm vụ, công vụ của họ tất yếu sẽ góp phần đem lại lẽ công bằng. Điều mà tưởng chừng ít người không hiểu này lại đang trở nên khó hiểu theo một cách rất đặc sắc mà chỉ Thông tư 01/2017 mới có thể tạo ra.
 
Với Danh tôi, đổi mới mô hình phòng xử án là điều cần thiết nếu điều đó đem lại nhiều lợi ích hơn, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng làm tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình hoặc tăng cường tốt hơn hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án, tuy nhiên, với những gì đã phân tích ở trên, có lẽ, kết quả này khó mà đạt được chỉ với một Thông tư, mà xuất phát điểm ban hành nó không nhằm mục đích tạo hiệu quả tốt hơn cho hoạt động xét xử, mà cũng chẳng nhằm bảo đảm hoạt động tranh tụng trước Tòa như những gì Tòa án nhân dân tối cao vẫn khẳng định. Bởi lẽ, nếu công bằng trong hoạt động tố tụng được xây dựng trên cơ sở chỗ ngồi trong mô hình phòng xử án, chắc hẳn hệ thống các quy định pháp luật cũng không có căn cứ để tồn tại nữa. Mặt khác, đổi mới mô hình phòng xử án đâu phải là tiền đề để có một bản án, quyết định công bằng, khách quan, đúng pháp luật, hợp lý, hợp tình? Bảo đảm tranh tụng trong xét xử là điều kiện cần nhưng chưa đủ để đem lại sự công bằng, khách quan trong xét xử. Liệu chỗ ngồi có giải quyết được vấn đề đúng sai, thấu tình đạt lý của một bản án hay quyết định do Hội đồng xét xử ban hành? Chỉ thay đổi một chỗ ngồi mà đem lại lẽ công bằng trong xét xử, chắc chắn các Kiểm sát viên làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử trong các phiên tòa sẽ vui vẻ chấp nhận. Song thực tế có được như thế không? Nếu thế, chắc chẳng có những kháng nghị từ phía Viện kiểm sát, cũng chẳng có kháng cáo từ phía bị cáo, đương sự đối với bản án, quyết định của Hội đồng xét xử. Đến đây, Danh tôi xin khẳng định, từ mô hình phòng xử án đến với lẽ công bằng là một chặng đường dài, có thể chẳng bao giờ đến đích, xin vui lòng bỏ đi cái suy nghĩ mô hình phòng xử án mới là con đường ngắn để đi đến với lẽ công bằng, vì như thế, bạn, tôi hay tất cả chúng ta đang quay lưng lại với lịch sử nền tư pháp Việt Nam, thờ ơ với công sức mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã bỏ ra trong suốt những năm qua vì một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, khách quan, công bằng…
 
Có ý kiến cho rằng, mô hình phòng xử án như quy định của Thông tư 01/2017 đã được áp dụng từ rất lâu rồi, và họ nghĩ rằng như vậy là hợp lý, song, nhân đây Danh tôi cũng nói luôn, mỗi quốc gia có đặc thù khác nhau về kinh tế, chính trị, xã hội, những gì phù hợp với quốc gia khác, không chắc sẽ phù hợp khi đem về áp dụng một cách máy móc, rập khuôn ở quốc gia mình. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, việc củng cố quyền lực nhà nước luôn phải đi kèm với kiểm soát quyền lực nhà nước, nhằm bảo đảm hiệu quả cho quá trình thực thi quyền lực nhà nước, tránh tình trạng lạm quyền trên bất cứ phương diện nào của quyền lực nhà nước. Vậy nên Danh tôi mới thắc mắc, vì cớ gì, một Thông tư có phần hạ thấp vai trò của cơ quan được Nhân dân trao quyền kiểm sát hoạt động xét xử lại được ban hành, tuyên truyền một cách vội vã như vậy, trước cả khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành? Đồng thời, qua rà soát, cho thấy, các đạo luật có liên quan như Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Luật tố tụng hành chính năm 2015 cũng không quy định cụ thể về vấn đề này. Hậu quả của việc ban hành Thông tư 01/2017 đối với hoạt động giám sát việc xét xử là như thế nào, quả thật Danh tôi không dám bàn đến ở đây, vì nếu có bàn đến, ắt hẳn có người sẽ nói: “Chờ triển khai thực hiện đã nhé, 05 năm sau tổng kết thi hành thì mới biết được”. Nhưng, chúng ta chờ được, chứ người dân, bị cáo và các đương sự chịu ảnh hưởng của một bản án, quyết định thiếu công bằng, khách quan có chờ được không?
 
Và điều nghiêm trọng hơn, đó là, tình trạng trống đánh xuôi, kèn thổi ngược trong hệ thống pháp luật nước ta, khi tồn tại một Thông tư có nội dung không phù hợp với Hiến pháp năm 2013 – đạo luật cơ bản nhất, quan trọng nhất của Nhà nước ta…Nên chăng, mỗi cấp, mỗi ngành trước khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, đặc biệt là trong công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của mình, nên cân nhắc đến lợi ích chung của Nhân dân, xã hội và Nhà nước, cân nhắc đến những yếu tố thuộc hai mặt trái và phải của một vấn đề, tránh để lợi ích trước mắt ảnh hưởng đến những nền tảng cơ bản mà các thế hệ đi trước đã dày công xây dựng./.
Bút Danh
.