Theo cáo trạng, mặc dù đã nghỉ hưu từ tháng 9/2011, không có chức năng tuyển sinh, tuyển dụng cho người khác vào làm việc, học tập trong ngành Công an, nhưng lợi dụng thời gian làm hợp đồng dịch vụ tại căng tin của Trung tâm Huấn luyện và bồi dưỡng nghiệp vụ (Công an TP. Hà Nội), Nguyễn Thị Tuyết tự giới thiệu Tuyết đang công tác tại Cục Cảnh sát giao thông (Bộ Công an) hoặc đang công tác trong ngành Công an, có nhiều mối quan hệ và có khả năng xin được việc cho nhiều người học ngành ngoài vào làm việc trong ngành với mức “chi phí” từ 250 triệu đồng đến 400 triệu đồng/trường hợp.
Với thủ đoạn nêu trên, trong khoảng thời gian từ tháng 11/2014 đến tháng 2/2017, Nguyễn Thị Tuyết đã nhận và chiếm đoạt được hơn 2,5 tỷ đồng của 8 người bị hại. Quá trình điều tra, Tuyết mới chỉ trả được hơn 330 triệu đồng cho các bị hại. Còn lại, Tuyết chiếm đoạt hơn 2,2 tỷ đồng.
Trong số các bị hại, ông Nguyễn Bạch Đ. nhờ Tuyết xin cho con trai ông Đằng là anh Nguyễn Đức A. (SN 1989, đã tốt nghiệp Học viện Bưu chính viễn thông) vào làm việc trong ngành công an. Tuyết đồng ý và hứa xin cho anh Đức A. vào làm việc tại Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm công nghệ cao (Công an TP. Hà Nội) với “chi phí” 400 triệu đồng. Ông Đ. đồng ý và đã đưa cho Tuyết tổng số 400 triệu đồng.
Tuyết hẹn sau 3 tháng nếu không xin được việc cho anh Đức A. thì sẽ trả lại toàn bộ số tiền này. Tuy nhiên sau đó, anh Đức A. không được đi làm như Tuyết hứa hẹn, nhưng Tuyết không trả tiền lại cho ông Đ. Sau nhiều lần bị đòi tiền, Tuyết mới trả được cho ông Đ. 136 triệu đồng, còn lại Tuyết nợ của ông 264 triệu đồng.
Tại cơ quan điều tra, lúc đầu Nguyễn Thị Tuyết thừa nhận, vì cần tiền chi tiêu nên đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các bị hại. Sau đó, Tuyết thay đổi lời khai cho rằng, sau khi nhận tiền từ các bị hại, bị cáo đã đưa cho nhiều người để nhờ xin việc, "chạy trường". Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, kết quả cho thấy không có ai như miêu tả của Tuyết, nên không có cơ sở để xác minh, làm rõ.
Quá trình điều tra, Công an TP Hà Nội nhiều lần triệu tập Nguyễn Thị Tuyết, nhưng Tuyết lấy lý do bị bệnh tâm thần, trầm cảm, không đủ minh mẫn, tỉnh táo để làm việc. Cơ quan điều tra đã ra quyết định trưng cầu pháp y tâm thần đối với Tuyết, kết quả cho thấy: Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo không có bệnh tâm thần, đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Tại thời điểm giám định, Tuyết có biểu hiện phản ứng hỗn hợp lo âu trầm cảm, song vẫn đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi./.