Để giúp dư luận hiểu rõ hơn nguồn tin chính thống về quan điểm của VKS tại phiên tòa này, Báo Bảo vệ pháp luật thông tin rõ như sau.
|
|
Đại diện Viện KSND TP.HCM phát biểu tại phiên tòa |
Về quan hệ hôn nhân
Bà Thảo và ông Vũ kết hôn hợp pháp năm 1998. Năm 2015, bà Thảo làm đơn khởi kiện xin ly hôn với lý do những năm gần đây, hai bên phát sinh mâu thuẫn trong tư tưởng, suy nghĩ về cuộc sống và đời sống vợ chồng, trong việc điều hành công ty, ông Vũ không quan tâm chăm sóc vợ con trong thời gian ông ở trên núi.
Từ khi bà Thảo khởi kiện đến tháng 6/2017, tại các văn bản nêu ý kiến, ông Vũ không đồng ý ly hôn cho rằng mặc dù vợ chồng có bất đồng quan điểm sống, bà Thảo có những hành xử không đúng chuẩn mực nhưng vì tình nghĩa vợ chồng, trách nhiệm và tình thương yêu với các con và sự nghiệp đã gây dựng gần 20 năm, ông đề nghị tòa cho thời gian để đôi bên hòa giải.
Đến thời điểm ngày 13/6/2017 và các buổi làm việc sau đó, ông Vũ đồng ý ly hôn vì mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn.
Tại phiên tòa hòa giải cuối vào ngày 14/1/2019 và tại phiên tòa ngày 21/2/2019, bà Thảo có nguyện vọng đoàn tụ nhưng ông Vũ kiên quyết ly hôn nên bà Thảo đề nghị giữ yêu cầu ly hôn.
Như vậy, bà Thảo yêu cầu ly hôn, ông Vũ đồng ý, tòa án đã hòa giải không thành nên đề nghị giải quyết cho ly hôn theo nguyện vọng.
|
|
Ông Đặng Lê Nguyên Vũ trình bày tại phiên tòa |
Ghi nhận sự thỏa thuận đôi bên về con chung
Bà Thảo và ông Vũ ở với nhau có 4 người con, trong đó người con trai đầu đã thành niên. Bà Thảo và ông Vũ đều yêu cầu được trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên ông Vũ tôn trọng ý kiến của các con nên nếu các con muốn ở với mẹ thì ông tùy ý các con. Nguyện vọng của 3 trẻ chưa thành niên trên 7 tuổi đều muốn được ở với mẹ.
Căn cứ ý kiến, nguyện vọng của các bên và các con thấy giao 3 con chưa thành niên cho bà Thảo trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Bà Thảo và ông Vũ thỏa thuận cấp dưỡng nuôi con hàng năm, mỗi trẻ 2,5 tỷ đồng/năm, ông Vũ tự nguyện cấp dưỡng cho cả con đã thành niên với mức trên. Thời gian cấp dưỡng tự nguyện từ năm 2013 đến khi mỗi con học xong đại học.
Về tài sản chung:
Quá trình giải quyết vụ án, bà Thảo đã rút một phần yêu cầu khởi kiện, ông Vũ đã rút một phần yêu cầu phản tố. Các bên chỉ đề nghị tòa án giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng có trong 8 công ty (Công ty cổ phần Đầu tư Trung Nguyên, Công ty cổ phần Tập đoàn Trung Nguyên, Công ty CP Trung Nguyên Franchising, Công ty cổ phần Cà phê hòa tan Trung Nguyên, Công ty TNHH Đầu tư Du lịch Đặng Lê, Công ty TNHH Vũ Nguyên Đắc Nông, Công ty cổ phần Cà phê Trung Nguyên, Công ty Trung Nguyen International); 13 bất động sản; tiền và vàng gửi tại các ngân hàng.
Đối với Công ty Trung Nguyen International (Singapore), tòa án đã có quyết định tách vụ án số 42/2017/QĐST-DS ngày 22/5/2017, hiện tòa chưa có quyết định nhập nên không xem xét giải quyết trong vụ án này.
Đối với yêu cầu chia số tiền, vàng gửi tại các ngân hàng quy đổi và làm tròn số thành 2.109 tỷ đồng, do chưa đảm bảo về tố tụng, việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, nên VKS thấy chưa có đủ cơ sở vững chắc để đề nghị giải quyết.
Đối với 13 bất động sản, phương án phân chia bất động sản nào cho ai sở hữu mà bên bị đơn đưa ra, phía nguyên đơn không phản đối nên đề nghị giải quyết theo phương án bị đơn đưa ra: Bà Thảo được sở hữu 7 bất động sản hiện bà đang quản lý và sử dụng trị giá tương đương 375 tỷ đồng, ông Vũ được sở hữu 6 bất động sản hiện ông đang quản lý và sử dụng trị giá tương đương 350 tỷ đồng. Bà Thảo thanh toán cho ông Vũ phần giá trị chênh lệch.
|
|
Bà Lê Hoàng Diệp Thảo phát trình bày tại phiên tòa. |
Phân chia tỷ lệ phù hợp nhằm đảm bảo quyền lợi các bên
Theo quy định tại Điều 33, 59 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Khoản 4 Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT TANDTC-VKSNDTC-BTP về việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Xét công sức đóng góp của ông Vũ, khởi nghiệp từ năm 1996, khi đó GPKD cấp ngày 15/8/1996 cấp cho cá nhân ông Vũ, với hình thức cá nhân kinh doanh, tên cơ sở là “Trung Nguyên CAFE”. Bà Thảo cho rằng bà có đóng góp tiền cho ông Vũ lúc khởi nghiệp nhưng không có chứng cứ chứng minh, năm 1998 ông Vũ và bà Thảo kết hôn.
Năm 1999, thành lập HTX với tên gọi là “Xí nghiệp cà phê Trung Nguyên” với số vốn điều lệ 140,5 triệu đồng, Ban quản trị ban đầu chỉ có ông Vũ, sau đó có thêm ông Mơ (là cha ông Vũ). Năm 2002, thành lập Công ty TNHH cà phê Trung Nguyên với hai thành viên là ông Vũ và ông Mơ.
Năm 2006, đăng ký thành lập Công ty cổ phần Trung Nguyên (nay đổi tên là Công ty cổ phần Tập đoàn Trung Nguyên). Năm 2007, đăng ký Công ty cổ phần cà phê hòa tan Trung Nguyên và Công ty cổ phần cà phê Trung Nguyên (chuyển đổi từ Công ty TNHH cà phê Trung Nguyên). Năm 2009, đăng ký Công ty cổ phần đầu tư Trung Nguyên. Năm 2010, đăng ký Công ty TNHH đầu tư và du lịch Đặng Lê. Năm 2011, đăng ký Công ty cổ phần Trung Nguyên FRANCHISING.
Kể từ khi Trung Nguyên được thành lập đến nay, bị đơn là người nắm giữ vai trò quản lý, điều hành ở hầu hết các công ty trong Tập đoàn Trung Nguyên trong cương vị Chủ tịch HĐQT/Chủ tịch HĐTV kiêm Tổng Giám đốc và hiện tại là người đại diện theo pháp luật của cả 7 công ty. Nhãn hiệu “Trung Nguyên” được đăng ký từ năm 2003 và khởi nguồn từ tên gọi “Trung nguyên cà phê” do ông Vũ khởi nghiệp từ năm 1996.
Tại phiên tòa 21/2/2019, bản thân bà Thảo cũng đề nghị chia cho ông Vũ nhiều hơn bà 100 tỷ đồng.
Xét công sức đóng góp của bà Thảo thấy rằng: Sau khi kết hôn, sinh con bà vừa chăm sóc con cái, vừa tham gia các hoạt động kinh doanh. Bà là cổ đông của các công ty từ năm 2006 đến nay, ngoài ra bà được bổ nhiệm chức vụ Phó Tổng giám đốc từ năm 2006 đến năm 2015.
Trên cơ sở phân tích trên, VKS đề nghị HĐXX xem xét phân chia tỷ lệ phù hợp nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên và đảm bảo không ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các công ty.
Quá trình giải quyết vụ án, không bên nào yêu cầu giải quyết nợ chung, tại phiên tòa các đương sự trình bày vợ chồng không có nợ chung nên không xem xét.
Bởi các lẽ trên, VKS đề nghị HĐXX, đình chỉ giải quyết đối với các yêu cầu khởi kiện và yêu cầu phản tố đã rút. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Thảo, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Thảo và chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Vũ về việc chia tài sản chung của vợ chồng. Việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con, việc chia tài sản giải quyết theo hướng đã phân tích ở trên.