Theo cơ quan chủ trì xây dựng, Luật GDĐT đã được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 và có hiệu lực thi hành từ 1/3/2006. Sau gần 15 năm thực hiện, Luật GDĐT cùng với các Luật Công nghệ thông tin 67/2006/QH11, Luật Viễn thông số 41/2009/QH12, Tần số và Vô tuyến điện số 42/2009/QH12, An toàn thông tin mạng số 86/2015/QH13, An ninh mạng số 24/2018/QH14 và các luật chuyên ngành khác tạo hành lang pháp lý hỗ trợ đẩy mạnh mẽ ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đẩy GDĐT, góp phần nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế-xã hội, đưa ứng dụng khoa học, công nghệ vào cải cách hành chính.

Mặc dù có những đóng góp tích cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên, trước bối cảnh công nghệ thay đổi nhanh chóng, Luật GDĐT 2005 vẫn bộc lộ một số vấn đề tồn tại, hạn chế nên việc xây dựng dự án Luật GDĐT (sửa đổi) là rất cần thiết, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy chuyển đổi số, xã hội số, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các quy định pháp luật có liên quan.

Cũng theo cơ quan chủ trì soạn thảo, việc xây dựng Luật GDĐT (sửa đổi) nhằm thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về việc hoàn thiện thể chế về GDĐT; khắc phục những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn hơn 15 năm thi hành cũng như những bất cập nảy sinh giữa các quy định của Luật GDĐT với các văn bản quy phạm pháp luật khác được Quốc hội ban hành sau.

Theo đó, việc xây dựng Luật GDĐT (sửa đổi) nhằm xây dựng một Luật thống nhất, tạo một hành lang pháp lý hoàn thiện để thực hiện chuyển đổi các hoạt động từ môi trường thực sang môi trường số trong tất cả các ngành, lĩnh vực và vẫn thực hiện đúng theo phân công quản lý nhà nước hiện nay mà các bộ ngành sẽ chịu trách nhiệm đúng theo mảng, lĩnh vực được phân công.

Khắc phục được những bất cập, tồn tại, hạn chế của Luật hiện hành, đặc biệt là đối với vấn đề bảo đảm giá trị pháp lý của GDĐT; luật hóa các vấn đề thực tiễn yêu cầu và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật hiện hành.

Khẳng định giá trị pháp lý cho GDĐT, công nhận GDĐT có giá trị pháp lý giống như giao dịch truyền thống trong môi trường thực. Quy định cụ thể về các điều kiện bảo đảm giá trị pháp lý của GDĐT.

Đồng thời, ưu tiên, khuyến khích thực hiện GDĐT bằng việc đưa ra các quy định, chính sách thực hiện GDĐT rẻ hơn, nhanh hơn, dễ dàng hơn, an toàn hơn giao dịch truyền thống.

leftcenterrightdel
 Cán bộ hướng dẫn người dân kê khai, nộp hồ sơ điện tử. (Ảnh minh hoạ)

Về bố cục, Luật GDĐT năm 2005 có kết cấu 54 điều và chia thành 8 chương. Sau khi sửa đổi, bổ sung, dự kiến, Luật GDĐT (sửa đổi) sẽ có bố cục 11 chương và 104 điều.

Về các nội dung sửa đổi, bổ sung, dự thảo Luật tập trung vào các nhóm nội dung chính trong 9 chính sách đã được thông qua theo Nghị quyết số 48/NQ-CP ngày 6/5/2021 của Chính phủ, bao gồm: Quy định mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật GDĐT, theo đó đề xuất mở rộng phạm vi áp dụng của hoạt động GDĐT tới tất cả các hoạt động của đời sống xã hội.

Quy định đảm bảo giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu nhằm giải quyết bất cập của Luật GDĐT 2005 là quy định không đủ chi tiết để thực thi bảo đảm được giá trị pháp lý và độ tin cậy, an toàn của thông điệp dữ liệu.

Quy định bảo đảm giá trị pháp lý của chữ ký điện tử, quản lý dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành về giá trị pháp lý của các loại hình chữ ký điện tử, tạo cơ sở pháp lý, bảo đảm triển khai GDĐT an toàn, tin cậy, có giá trị pháp lý trên không gian mạng.

Quy định đảm bảo giá trị pháp lý của tài khoản giao dịch và dịch vụ tạo lập, xác thực tài khoản giao dịch. Với chính sách này, Luật GDĐT (sửa đổi) sẽ giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành về giá trị pháp lý của các loại tài khoản giao dịch gắn với chủ thể giao dịch trong hoạt động GDĐT, tạo cơ sở pháp lý, bảo đảm triển khai GDĐT an toàn, tin cậy, có giá trị pháp lý trên không gian mạng.

Quy định đảm bảo giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử, quy định về giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử. Với chính sách này, Luật GDĐT (sửa đổi) sẽ giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành về giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử cũng như các công đoạn của quy trình giao kết hợp đồng điện tử, tạo cơ sở pháp lý, bảo đảm triển khai giao dịch hợp đồng điện tử an toàn, tin cậy, có giá trị pháp lý trên không gian mạng.

Quy định về dịch vụ tin cậy và dịch vụ hỗ trợ GDĐT nhằm bổ sung quy định để chứng thực giá trị pháp lý của GDĐT và các yếu tố cấu thành, đảm bảo GDĐT an toàn, tin cậy và hỗ trợ để các hoạt động GDĐT chuyên nghiệp, phù hợp yêu cầu trong thực tế phát triển.

Quy định về GDĐT của cơ quan nhà nước và chính sách hỗ trợ GDĐT, thúc đẩy chuyển đổi số. Với chính sách này, Luật GDĐT (sửa đổi) sẽ thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa ứng dụng công nghệ thông tin trong các giao dịch của các cơ quan nhà nước và các tổ chức, cá nhân, tháo gỡ các vướng mắc trong việc thực hiện các thủ tục hành chính, dịch vụ công trên môi trường mạng với lộ trình và giải pháp khả thi để thực hiện thống nhất trong phạm vi cả nước, đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số của Việt Nam.

Quy định về an toàn, an ninh, bảo vệ, bảo mật trong GDĐT nhằm hoàn thiện, đồng bồ với các Luật ban hành sau Luật GDĐT 2005 được ban hành như Luật An toàn thông tin và Luật an ninh mạng.

Đồng thời, quy định về nền tảng số, dịch vụ số và hệ thống GDĐT. Các nội dung dự thảo Luật sẽ tập trung vào nghĩa vụ của các nền tảng số trong hoạt động GDĐT, quy định quản lý hệ thống GDĐT và hoạt động GDĐT trên nền tảng số, dịch vụ số và giao dịch trực tuyến.

Về các nguyên tắc chung tiến hành GDĐT, dự thảo Luật quy định: Tự nguyện, tự thỏa thuận về việc lựa chọn sử dụng phương tiện điện tử để thực hiện giao dịch; bảo đảm sự bình đẳng và an toàn trong GDĐT, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; các kết quả của GDĐT được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu, đáp ứng các yêu cầu về mức độ tin cậy theo quy định của pháp luật thì được thừa nhận có giá trị pháp lý tương đương văn bản; không yêu cầu tổ chức, cá nhân khai, nộp lại những dữ liệu mà cơ quan nhà nước đang quản lý hoặc đã được cơ quan nhà nước khác sẵn sàng chia sẻ; tối đa hóa quy trình trong GDĐT để tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức của tổ chức, cá nhân; thực hiện GDĐT không làm tăng phí, lệ phí ngoài quy định của pháp luật; đồng thời, tổ chức, cá nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền và nghĩa vụ trong GDĐT.
P.V