Từ cán bộ văn hóa, doanh nhân ngành văn hóa đến nghệ sĩ, mỗi ý kiến phản ánh thực tế, kỳ vọng và đề xuất thiết thực, góp phần hoàn thiện văn kiện Đảng, phát triển văn hóa và con người, biến văn hóa thành nguồn lực nội sinh, động lực mạnh mẽ cho đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi.” Lời dạy giản dị nhưng sâu sắc này trở thành kim chỉ nam trong suốt quá trình phát triển đất nước. Văn hóa không chỉ là giá trị tinh thần, mà còn là động lực nội sinh để thúc đẩy sự phát triển toàn diện của con người và xã hội. Trong bối cảnh Việt Nam sau 40 năm đổi mới, việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc càng trở nên cấp thiết.
    |
 |
| Lễ hội Lam Kinh (Thanh Hoá) năm 2025. |
Dự thảo văn kiện trình Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội XIV) nhấn mạnh: “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng bộ trên nền tảng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam.” Nó không chỉ định hướng cho đời sống tinh thần của nhân dân, mà còn góp phần hình thành những con người toàn diện, có đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, kỹ năng sống và nghề nghiệp. Như vậy, văn hóa chính là nguồn lực nội sinh, giúp đất nước phát triển bền vững và là cơ sở để dân tộc tự tin vươn mình ra thế giới.
Lắng nghe tiếng nói từ cơ sở để xây dựng văn hóa
Thực tế ở cơ sở, những tiếng nói từ cán bộ văn hóa, doanh nhân ngành công nghiệp văn hóa, nghệ sĩ và người dân đều phản ánh nhu cầu thiết thực, gần gũi, linh hoạt. Văn hóa - nghệ thuật phải đi vào đời sống, đồng thời bảo tồn giá trị truyền thống, tạo động lực sáng tạo.
Chị Trương Thị Tý, cán bộ văn hóa - chính sách xã Hoằng Tiến, tỉnh Thanh Hóa chia sẻ: Các hoạt động văn hóa tại cơ sở vẫn được triển khai đều đặn. “Chúng tôi thường xuyên tổ chức các chương trình văn hóa theo kế hoạch đã đề ra. Mọi hoạt động đều được duy trì đều đặn và có sự tham gia của cộng đồng địa phương, các lễ hội, hội thi và hoạt động sáng tạo văn hóa tại địa phương diễn ra theo định kỳ, tạo ra không khí sinh hoạt chung cho người dân”.
Tuy nhiên, vẫn còn một số hoạt động từ trên triển khai xuống vẫn chưa thực sự gần gũi với đời sống người dân. Nếu dự thảo văn kiện Đảng nhấn mạnh hơn việc thiết kế các chương trình văn hóa dựa trên nhu cầu thực tế tại cơ sở, chắc chắn hiệu quả sẽ cao hơn.
Đang chuẩn bị cho dụng cụ cho buổi biểu diễn văn nghệ tại phường, chị Nguyễn Diệu Hà, một nghệ sĩ hoạt động tại phường Đồng Hới, Quảng Trị, chia sẻ: “Trong nhiều năm tham gia các hoạt động nghệ thuật và các chương trình do tỉnh tổ chức, tôi thực sự cảm nhận được tinh thần gìn giữ văn hóa của chính quyền địa phương cũng như sự hưởng ứng của người dân.”
“Dự thảo văn kiện đã nêu rõ việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, điều này rất đáng trân trọng. Tuy nhiên, chúng tôi mong muốn có cơ chế hỗ trợ cụ thể hơn, để nghệ thuật truyền thống vừa được gìn giữ, vừa được đổi mới sáng tạo, phù hợp với đời sống hiện đại. Khi đó, nghệ sĩ và cộng đồng sẽ được khuyến khích sáng tạo, làm cho văn hóa thêm sinh động và gần gũi hơn với đời sống thực tế.”- chị Hà mong muốn.
Anh Lê Xuân Cành, một doanh nhân trong lĩnh vực văn hóa giải trí cho biết: “Trong quá trình triển khai và tổ chức nhiều chương trình văn hóa, nghệ thuật, chúng tôi cũng gặp không ít khó khăn. Văn kiện đã đề cập đến việc phát triển công nghiệp văn hóa, nhưng theo tôi, cần bổ sung những giải pháp cụ thể để doanh nghiệp có thể đầu tư dài hạn, đồng thời giảm thiểu rủi ro về thủ tục hành chính và vốn. Khi cơ chế rõ ràng hơn, các dự án văn hóa sẽ được triển khai hiệu quả, lan tỏa rộng rãi và đáp ứng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân.”
Còn về phía người dân, bà Lê Thị Chóc (70 tuổi, xã Hoằng Tiến, Thanh Hóa) tâm tư: Hằng năm, ở địa phương chúng tôi có nhiều hoạt động văn hóa như: lễ hội cầu ngư, lễ hội đua thuyền, các chương trình văn nghệ của người cao tuổi… Nhiều lễ hội vẫn giữ được phong tục, tập quán đẹp của quê hương, nhưng cũng có những chương trình dần bị biến tướng, không còn giữ được nét văn hóa xưa vốn mộc mạc, chân thành.
Từ câu chuyện của cán bộ cơ sở, nghệ sĩ, doanh nhân và người dân có thể thấy, để văn hóa Việt Nam thực sự tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc, việc kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa bảo tồn và đổi mới sáng tạo là yêu cầu cấp thiết. Những “tiếng nói” từ cơ sở cho thấy, nếu chính sách văn hóa chỉ dừng lại ở nghị quyết, khẩu hiệu hay các chương trình ngắn hạn, thì sức sống văn hóa sẽ khó lan tỏa trong cộng đồng. Văn hóa chỉ thật sự sống khi nó được thực hành trong đời sống thường nhật, từ trường học, gia đình, đến thôn xóm, cơ quan và doanh nghiệp.
Do đó, trong quá trình hoàn thiện Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng, nhiều ý kiến từ cơ sở mong rằng các chính sách văn hóa cần đi vào thực tế, có tính linh hoạt theo đặc thù từng vùng, từng địa phương; đồng thời chú trọng khơi dậy tinh thần tự giác, sáng tạo của người dân những chủ thể trung tâm của đời sống văn hóa.
Con người là trung tâm của văn hóa, động lực phát triển
Trong mọi giai đoạn phát triển, Đảng ta luôn khẳng định tinh thần “lấy con người làm trung tâm của phát triển”. Để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, yếu tố quyết định chính là con người, chủ thể sáng tạo và gìn giữ giá trị dân tộc. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV lần này nhấn mạnh hơn bao giờ hết đến việc phát triển con người Việt Nam toàn diện về đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, thể lực và thẩm mỹ.
Theo ông Lê Văn Trung, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thanh Hóa, đây là bước tiến quan trọng trong tư duy phát triển văn hóa, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng.
Ông Lê Văn Trung cho rằng: “Khi con người được đặt ở vị trí trung tâm, mọi chính sách văn hóa cần hướng đến việc khơi dậy tiềm năng sáng tạo, bồi đắp đạo đức, lòng tự tôn dân tộc và tinh thần cống hiến trong mỗi người Việt Nam. Văn kiện đã thể hiện rõ quan điểm chăm lo, xây dựng đội ngũ cán bộ văn hóa, văn nghệ sĩ và những người hoạt động ở cơ sở, những người trực tiếp truyền tải giá trị văn hóa đến cộng đồng. Đây là yếu tố then chốt để phong trào văn hóa lan tỏa sâu rộng, góp phần hình thành môi trường văn hóa lành mạnh, gắn kết con người và cộng đồng trong thời kỳ mới.”
Cũng theo Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thanh Hóa, để cụ thể hóa tinh thần ấy, cần triển khai đồng bộ một số giải pháp, trước hết là tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng chuyên môn và năng lực tổ chức hoạt động văn hóa cho cán bộ cơ sở, kết hợp với đầu tư thiết chế văn hóa ở vùng nông thôn, miền núi, hải đảo, để mọi người dân đều có cơ hội tiếp cận và hưởng thụ văn hóa. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý và sáng tạo văn hóa, khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức xã hội và cộng đồng cùng tham gia phát triển công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa.
    |
 |
| Cần đầu tư thiết chế văn hóa ở vùng nông thôn, miền núi, hải đảo, để mọi người dân đều có cơ hội tiếp cận và hưởng thụ văn hóa. |
“Nếu mỗi chính sách được thực thi bằng con người cụ thể, ở địa phương cụ thể, thì văn hóa sẽ thực sự lan tỏa, thấm sâu và trở thành động lực phát triển bền vững” - ông Trung nhấn mạnh.
Dưới góc nhìn của các chuyên gia văn hóa, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã thể hiện bước tiến quan trọng khi coi “con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực và mục tiêu của phát triển”. Tuy nhiên, để tinh thần đó đi vào cuộc sống, cần có hệ thống giải pháp đồng bộ, gắn giữa chính sách, giáo dục và môi trường xã hội.
Văn hóa không chỉ là lĩnh vực hoạt động nghệ thuật hay giải trí, mà còn là nền tảng tinh thần chi phối hành vi, lối sống, thái độ và năng lực của mỗi người trong xã hội hiện đại. Vì vậy, cần quan tâm hơn nữa đến việc phát triển văn hóa trong trường học, cơ quan, doanh nghiệp. Đồng thời, đẩy mạnh giáo dục thẩm mỹ, nhân cách và trách nhiệm xã hội cho thế hệ trẻ.
Cùng với đó, việc đầu tư cho công nghiệp văn hóa và chuyển đổi số trong lĩnh vực này cũng được xem là hướng đi tất yếu, giúp văn hóa trở thành ngành kinh tế có giá trị, góp phần lan tỏa bản sắc dân tộc trong hội nhập quốc tế.