Tại Bản án số 23/2023/DS-ST và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án số 15/QĐ-SCBSBA ngày 11/7/2023, TAND tỉnh P, tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn B về việc yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật đối với diện tích đất 1.085m2 tại thửa số 394(1), tờ bản đồ số 13 (đo đạc năm 2012) trước đây là thửa 945, tờ bản đồ số 12 được UBND huyện TA cấp GCNQSDĐ số AM 124740 cho bà Nguyễn Thị N gồm đất ONT 250m2, đất BHK 835m2; thửa 394(2) tờ bản đồ số 13 (đo đạc năm 2012) diện tích 2.257,4m2 (núi cát) chưa được cấp GCNQSDĐ cho ai và diện tích 3.938m2 đất rừng sản xuất theo GCNQSDĐ số BC 015794 đứng tên bà Nguyễn Thị B và ông Kiều Ái S. Lý do không chấp nhận là vì không có căn cứ pháp luật.

Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn. Hủy GCNQSDĐ số AM 124740 do UBND huyện TA cấp cho bà Nguyễn Thị N ngày 31/12/2008. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn đòi hủy GCNQSDĐ số BC 015794 của UBND huyện TA cấp ngày 7/5/2010 cho vợ chồng bà Nguyễn Thị B và ông Kiều Ái S, vì không có căn cứ pháp luật

Ngày 11/7/2023, cụ Nguyễn B kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia thừa kế.

Bản án dân sự phúc thẩm số 122/2024/DS-PT ngày 22/4/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng tuyên xử: Huỷ toàn bộ Bản án dân sự số 23/2023/DSST và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án số 15/QĐ-SCBSBA ngày 11/7/2023 của TAND tỉnh P; giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh P giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định của pháp luật.

leftcenterrightdel
 Quang cảnh phiên tòa xét xử rút kinh nghiệm một vụ án dân sự. (Ảnh minh họa)

Về những vấn đề cần rút kinh nghiệm, theo Viện cấp cao 2, theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Tại Biên bản ghi lời khai của bà B ngày 15/7/2020: “Mẹ tôi ở trên đất này từ khi giải phóng cho đến nay, trước đây đất này do ông bà tạo lập, khi kháng chiến chống Pháp, Mỹ thì mọi người đều đi thoát ly hết không ai về, chỉ còn mẹ tôi về ở trên đất này không ai tranh chấp"; Giấy xác nhận của nhiều nhân chứng sống ở địa phương đều xác nhận sau giải phóng năm 1975 cụ Nguyễn Thị N đến ở trên đất của cố Phó D (cố D là cha chồng cụ Nh, ông nội bà Võ Thị C) năm 2001 bão sập nhà nên năm 2002 cụ N về lại đất của cha mẹ để ở và Biên bản hòa giải do UBND xã AM lập ngày 10/4/2002 cũng thể hiện bà B đại diện cho cụ N đồng ý trả đất của cố Phó D cho bà Võ Thị C, cụ Nguyễn Thị Nh, cụ N về lại đất của cha mẹ để ở.

Mặt khác, bà B cho rằng các thửa đất cụ Nguyễn B yêu cầu chia thừa kế nguồn gốc là đất hoang, cạnh nghĩa địa, sau khi trả đất cho bà C, bà Nh năm 2002 cụ N được UBND xã AM giao đất hoang do UBND xã AM quản lý để xây dựng nhà ở lại mâu thuẫn với chính nội dung Đơn xin cấp GCNQSDĐ của cụ N ngày 10/3/2008, cụ N kê khai nguồn gốc đất đang sử dụng xin cấp GCNQSDĐ: "Do tạo lập, xây dựng nhà ở từ 1975 đến nay" và UBND xã AM cũng xác nhận: "nguồn gốc sử dụng đất do bà N tạo lập, sử dụng đất ở từ 1975 đến nay". 

Tại Công văn 1913/UBND ngày 15/9/2021 UBND huyện T cho biết: "Hồ sơ địa chính bản đồ 299 (đo năm 1993) thửa đất 226, tờ bản đồ số 8, diện tích 1.885m2, loại đất thổ cư (T), chủ sử dụng không thể hiện" và tại Công văn số 331/UBND ngày 30/11/2022 UBND xã AM cũng xác định: "nguồn gốc đất tranh chấp theo bản vẽ đo đạc theo hiện trạng thửa đất 945 ngày 31/5/2021 có nguồn gốc từ thửa đất số 225, tờ bản đồ 08 bản đồ đo đạc năm 1993 diện tích 1.885m2 ... có nguồn gốc do ông bà của nguyên đơn và bị đơn".

Từ các tài liệu, chứng cứ nêu trên đủ cơ sở xác định thửa đất số 394 (1), tờ bản đồ số 13 đo đạc năm 2012 (trước đây là thửa 945, tờ bản đồ số 12 được UBND huyện T cấp GCNQSDĐ số phát hành AM 124740 (số vào sổ H00291) ngày 31/12/2008 cho Nguyễn Thị N) diện tích 1.085m2 gồm 250m2 đất ở (ONT) và 835m2 đất trồng cây hàng năm khác (BHK) là đất thổ cư do vợ chồng cố L, cố P tạo lập để lại.

Theo Viện cấp cao 2, Toà án cấp sơ thẩm chưa đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, từ đó không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của cụ B làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Do vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm xử: Huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo quy định pháp luật.

Từ vụ án trên, Viện cấp cao 2 thông báo đến VKSND các tỉnh, thành phố trong khu vực để nghiên cứu, vận dụng nhằm nâng cao chất lượng công tác giải quyết án dân sự trong thời gian tới.

P.V