Chính những bước đột phá này không chỉ giúp ngành nông nghiệp hoàn thành vượt mức các mục tiêu đề ra mà còn nâng cao rõ rệt đời sống của người dân, mở ra hướng phát triển bền vững cho những năm tiếp theo.
Sản xuất liên kết theo chuỗi giá trị
Nhìn lại chặng đường vừa qua, dấu ấn rõ nét nhất của nông nghiệp Phú Thọ chính là sự “lột xác” của các sản phẩm địa phương. Nhiều nông sản được tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn chất lượng và thương hiệu, qua đó nâng tầm vị thế và tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Những mô hình liên kết ngày càng được nhân rộng, trở thành “chìa khóa” giúp nông sản địa phương nâng cao giá trị và khẳng định thương hiệu.
Một minh chứng điển hình là dự án trồng - sản xuất - chế biến chè búp tím tại huyện Thanh Ba (cũ). Với vai trò chủ trì của Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Trà UT, dự án đã tạo mối liên kết bền chặt giữa doanh nghiệp, 1 hợp tác xã và 11 hộ dân. Nhờ quy trình sản xuất bài bản và sự tận tâm của người làm chè, sản phẩm chè búp tím không chỉ chinh phục người tiêu dùng trong nước mà còn “vươn ra thế giới”, trở thành niềm tự hào của nông nghiệp Phú Thọ.
    |
 |
| Sản phẩm Chè búp tím của Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Trà UT. Ảnh: Phương Thanh |
Đặc biệt, UBND tỉnh đã công nhận 2 sản phẩm OCOP chè búp tím đạt chuẩn 4 sao và hồ sơ nâng hạng lên 5 sao đang được trình Hội đồng Trung ương xem xét. Hiệu quả kinh tế từ mô hình thể hiện rõ rệt, khi lao động tham gia dự án có thu nhập ổn định 7 - 8 triệu đồng/người/tháng - mức thu nhập đáng mơ ước đối với nhiều hộ nông thôn.
Cùng với hướng liên kết bền chặt giữa doanh nghiệp - hợp tác xã - người dân, Dự án liên kết sản xuất và tiêu thụ Bưởi Đoan Hùng tại huyện Đoan Hùng (cũ) do HTX CNC Đoan Hùng chủ trì cũng ghi dấu những bước phát triển mạnh mẽ. Quy mô sản xuất được mở rộng lên tới 100 ha, thu hút 3 HTX và 136 hộ dân tham gia. Mỗi năm, chuỗi liên kết mang lại giá trị hàng hóa khoảng 30 tỉ đồng, biến Bưởi Đoan Hùng trở thành cây trồng chủ lực của địa phương.
Nhờ sản xuất bài bản và đầu ra ổn định, người lao động tham gia mô hình có mức thu nhập bền vững 7 - 8 triệu đồng/người/tháng, trong khi sản phẩm bưởi cũng được nâng tầm với chứng nhận OCOP 4 sao. Điểm chung của các mô hình thành công này là sự kiên trì áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật tiên tiến, tạo nên sự khác biệt rõ rệt về chất lượng, từ đó nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nông sản trên thị trường.
Tại xã Liên Châu (huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc cũ), mô hình phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị gắn với tiêu thụ rau an toàn đã cho thấy sức mạnh của việc kiểm soát chất lượng từ gốc đến ngọn. Công ty TNHH Sản xuất và Phân phối nông sản sạch OFP đã áp dụng thành công quy trình canh tác theo hướng hữu cơ, đạt chứng nhận VietGAP cho 40 loại rau, củ, quả.
Không dừng lại ở đồng ruộng, công ty còn đầu tư nhà sơ chế hiện đại, được cấp chứng nhận ISO 22000:2018 cho toàn bộ hoạt động sơ chế - một chuẩn mực khắt khe về an toàn thực phẩm. Nhờ vậy, sản phẩm sau khi đóng gói đều có tem, nhãn, mã số, mã vạch truy xuất nguồn gốc, giúp người tiêu dùng yên tâm tuyệt đối và cho phép doanh nghiệp bán với mức giá cao hơn 15 - 20% so với sản phẩm sản xuất tự do.
    |
 |
| Thành viên Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp kinh doanh hàng nông sản An Hòa được hỗ trợ về vốn, giống, kỹ thuật canh tác... |
Nhờ định hướng sản xuất chuyên nghiệp và đầu ra ổn định, rau an toàn Liên Châu đã có mặt tại nhiều siêu thị, nhà hàng, khách sạn - những thị trường đòi hỏi chất lượng cao. Hiệu quả kinh tế thể hiện rõ ở mức lợi nhuận gần 140 triệu đồng/ha mỗi chu kỳ sản xuất, mang lại lợi ích thiết thực cho cả doanh nghiệp, hợp tác xã và các đơn vị tiêu thụ trong chuỗi giá trị.
Mô hình chăn nuôi gà thương phẩm theo quy trình VietGAHP gắn với liên kết tiêu thụ đang tạo nên một bước chuyển lớn trong chăn nuôi quy mô hộ gia đình. Với quy mô 150.000 con và sự tham gia của 128 hộ dân, mô hình cho thấy hiệu quả vượt xa chăn nuôi tự phát: tỷ lệ nuôi sống đạt 95,4% (so với 93%), khối lượng gà tăng lên 2.350g/con (so với 2.100g), còn hệ số tiêu tốn thức ăn FCR giảm xuống 2,9 (so với 3,1). Nhờ áp dụng quy trình VietGAHP, hiệu quả kinh tế tăng tới 20,61%, đồng thời tạo công ăn việc làm, nâng cao kiến thức kỹ thuật và thay đổi tư duy từ chăn nuôi truyền thống sang chăn nuôi an toàn, hiện đại.
    |
 |
| Tham gia chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ rau an toàn, các hộ thành viên được HTX rau an toàn Vĩnh Phúc cung ứng giống, vật tư, hướng dẫn kỹ thuật trồng rau an toàn và bao tiêu sản phẩm |
Không chỉ nâng sản lượng, các mô hình liên kết còn góp phần đảm bảo an ninh dinh dưỡng, khai thác hiệu quả nguồn lợi thủy sản và mở rộng không gian kinh tế cho khu vực miền núi, hồ chứa.
Tại tỉnh Vĩnh Phúc (cũ), mô hình chăn nuôi bò sữa tiếp tục phát triển mạnh với tổng đàn gần 18 nghìn con. Thành công của mô hình được xây dựng trên nền tảng các chuỗi liên kết tiêu thụ sữa tươi giữa hợp tác xã, hộ chăn nuôi và các doanh nghiệp chế biến lớn như FrieslandCampina Hà Nam, Vinamilk, Ba Vì…, giúp đầu ra ổn định và nâng thu nhập cho người dân.
Trong khi đó, mô hình nuôi cá lăng nha lồng tại hồ thủy điện Sơn La - Hòa Bình theo chuẩn VietGAP là minh chứng rõ rệt cho việc khai thác bền vững mặt nước lớn. Với quy mô 500 m³ lồng và sự tham gia của 4 hộ dân, mô hình đạt kết quả ấn tượng: tỷ lệ sống 91,5%, trọng lượng trung bình trên 1,2 kg/con, năng suất hơn 22 kg/m³ và toàn bộ các hộ đều đạt chứng nhận VietGAP.
Là một trong những hợp tác xã kiểu mới tiêu biểu với sản phẩm chủ lực là dưa chuột VietGAP, HTX Dịch vụ nông nghiệp - kinh doanh hàng nông sản An Hòa (xã Hoàng An) đang khẳng định “sức bật” mạnh mẽ trong phát triển nông nghiệp sạch, an toàn và đem lại thu nhập cao cho các thành viên. Hiện HTX có 34 hộ liên kết, canh tác 32 ha dưa chuột sạch, từng bước hình thành chuỗi sản xuất - tiêu thụ khép kín.
Khát vọng xây dựng thương hiệu cho dưa chuột An Hòa đã được hiện thực hóa từ năm 2017, khi tỉnh đầu tư xây dựng vùng sản xuất đạt chuẩn VietGAP. Nắm bắt cơ hội, ông Đỗ Văn Dũng, Giám đốc HTX, đã liên kết với 7 hộ dân thành lập mô hình HTX kiểu mới, hướng tới sản xuất bền vững, gắn tiêu thụ qua các chuỗi cung ứng. Nhờ chất lượng đảm bảo và nguồn gốc minh bạch, sản phẩm của HTX nhanh chóng được các siêu thị, doanh nghiệp chế biến ký hợp đồng bao tiêu. Từ cây trồng nhỏ lẻ, manh mún, dưa chuột nay trở thành cây làm giàu, giúp người dân yên tâm gắn bó với ruộng đồng.
Thành công của mô hình cũng mở ra xu hướng chung cho nhiều HTX trên địa bàn tỉnh: đầu tư vào sản xuất sạch, an toàn, mang lại lợi ích kinh tế, sức khỏe và môi trường, đồng thời khẳng định vị thế của kinh tế tập thể trong thời kỳ hội nhập.
    |
 |
| Các sản phẩm của Hợp tác xã Rau an toàn Vĩnh Phúc đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. |
Cùng hướng đi đó, HTX Rau an toàn Vĩnh Phúc (xã Hội Thịnh), được thành lập từ năm 2014, đã chủ động tái cơ cấu theo hướng sản xuất hàng hóa, gắn kết chặt với thị trường. HTX hiện có 40 thành viên, sản xuất hơn 10 ha rau an toàn và quản lý chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ nhằm kiểm soát chất lượng theo tiêu chuẩn. Nhờ tham gia mô hình, các thành viên có đầu ra ổn định, được hỗ trợ về vốn, giống, kỹ thuật.
Theo bà Kiều Thị Huệ, Giám đốc HTX, các sản phẩm chủ lực gồm su su (quả và ngọn), mướp hương, bầu, cải thảo, rau cải các loại, rau muống, rau đay… Năm 2020, HTX tiếp tục mở rộng cơ cấu giống với bí đao chanh, cải tím, rau tầm bóp và đưa vào sản xuất các sản phẩm sơ chế như su su bao tử, ngọn su su nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Nhờ mạng lưới tiêu thụ được mở rộng, doanh thu và thu nhập của các thành viên không ngừng tăng. HTX cũng bao tiêu sản phẩm cho nhiều hộ dân địa phương, hình thành chuỗi liên kết giá trị và thay đổi tư duy sản xuất truyền thống.
Có thể thấy, việc tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, kết nối chặt chẽ giữa HTX - doanh nghiệp - thị trường đang giúp giảm rủi ro, tăng hiệu quả, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp. Nhiều HTX đã mạnh dạn ứng dụng công nghệ cao, sản xuất hữu cơ, truy xuất nguồn gốc, thậm chí kết hợp phát triển sản phẩm OCOP và du lịch cộng đồng, mở ra hướng đi triển vọng.
Tuy nhiên, để tạo sức bật mạnh mẽ hơn, các HTX cần tiếp tục đổi mới phương thức cung ứng, kết nối thị trường hiện đại, làm chủ công nghệ và xây dựng chuỗi cung ứng bền vững. Đây chính là chìa khóa nâng cao thu nhập cho thành viên và khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế tập thể trong phát triển nông nghiệp nông thôn hiện nay.
Sau 5 năm triển khai, hàng loạt mô hình và dự án đã cho thấy rõ tính bền vững, hiệu quả và khả năng nhân rộng, trở thành minh chứng sinh động cho định hướng phát triển nông nghiệp hiện đại. Các cấp chính quyền đã chủ động ban hành nhiều kế hoạch, đề án và chính sách phù hợp, lồng ghép mục tiêu an ninh lương thực vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Chương trình xây dựng nông thôn mới và đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
Nhờ đó, tỉnh đã đạt được những kết quả toàn diện: sản xuất lương thực, thực phẩm ổn định, đủ đáp ứng nhu cầu trong tỉnh và cung ứng một phần cho thị trường ngoài tỉnh; hình thành các vùng sản xuất tập trung theo hướng hàng hóa gắn với chuỗi giá trị; đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ trong suốt chu trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ. Giá trị ngành nông nghiệp tăng trưởng bình quân 3,6%/năm, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển lâu dài.
Việc nhân rộng các mô hình sản xuất tiên tiến, sản xuất theo chuỗi giá trị và nông nghiệp hữu cơ không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn góp phần bảo đảm an ninh lương thực, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Đây chính là bước đi quan trọng hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại, sạch, bền vững, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường và quá trình hội nhập quốc tế.
Ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp
Ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp đang trở thành giải pháp then chốt giúp nâng cao giá trị sản phẩm, hiệu quả sản xuất và thu nhập cho nông dân. Những năm qua, tỉnh Phú Thọ đã mạnh dạn đưa nhiều kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào quy trình canh tác, từng bước hình thành các vùng sản xuất hàng hóa cho năng suất cao, chất lượng ổn định và hiệu quả vượt trội.
Nhận thấy thanh long ruột đỏ rất phù hợp với khí hậu và thổ nhưỡng địa phương, anh Bùi Văn Thanh ở xóm Đồi Bưng, xã Tân Lạc đã mạnh dạn cải tạo đất, mở rộng diện tích lên hàng nghìn mét vuông. Đặc biệt, anh đầu tư hệ thống đèn LED chuyên dụng để kích thích cây ra hoa trái vụ - kỹ thuật vốn được áp dụng phổ biến ở miền Nam nhưng còn khá mới mẻ tại miền Bắc.
Anh Thanh chia sẻ: “Tôi học hỏi từ báo đài, rồi vào tận miền Nam xem họ làm. Ở đó người ta bị cắt điện nhiều, còn ngoài Bắc thì mùa đông lạnh nên cây khó ra hoa hơn. Nhưng cái gì cũng phải thử, phải cố gắng. Năm đầu thắp đèn, tôi lo lắm, không ngờ cây ra hoa đều, đẹp và cho năng suất cao.” Kết quả, ngay vụ đầu tiên, vườn thanh long của anh đạt 12 tấn, mỗi gốc cho từ 10-15 quả, hiệu quả vượt mong đợi.
Nhờ kỹ thuật canh tác mới và sự chăm sóc bài bản, thanh long ruột đỏ của gia đình anh có chất lượng tốt, được thị trường đón nhận tích cực, mang lại lợi nhuận hàng trăm triệu đồng mỗi năm.
    |
 |
| Nhờ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, bà con nông dân có cơ hội vươn lên nhờ thu nhập từ thanh long ruột đỏ |
Cây thanh long ruột đỏ ở Phú Thọ đang chứng minh tiềm năng lớn, trở thành hướng đi triển vọng cho nhiều hộ nông dân trong việc nâng cao thu nhập và đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp địa phương.
Nhận thấy hiệu quả kinh tế từ việc trồng thanh long ruột đỏ trái vụ, năm 2021, xã Đông Lai (cũ, nay là xã Tân Lạc) đã thí điểm trồng 1.000 m² tại xóm Đồi Bưng. Nhiều hộ gia đình, trong đó có gia đình anh Bùi Văn Thanh, đã đầu tư hệ thống đèn chiếu trái vụ, giúp thanh long đạt chất lượng cao, cho quả trái vụ năng suất tốt và được thị trường đón nhận tích cực. Đến nay, toàn xã đã nhân rộng diện tích lên hơn 2 ha, nhiều hộ coi đây là nguồn thu nhập chính với hướng phát triển lâu dài để làm giàu.
Theo UBND xã Tân Lạc, UBND xã đã xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, trong đó trọng tâm là cây thanh long ruột đỏ với diện tích trên 3 ha. Thanh long phù hợp với thổ nhưỡng địa phương và mang lại thu nhập cao, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế của xã.
Trên các sườn đồi xã Long Cốc, tỉnh Phú Thọ, những diện tích chè bị thoái hóa sau nhiều năm bón phân hóa học đang được Công ty Biobee Việt - Pháp khôi phục bằng cách trồng xen nha đam theo phương pháp canh tác kỹ thuật cao, không sử dụng phân bón hóa học. Đây là giải pháp vừa phục hồi đất, vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao gấp nhiều lần so với cây chè truyền thống.
Ông Nguyễn Xuân Thanh, Quản lý khu canh tác nha đam, cho biết: “Năng suất nha đam ở đây cao gấp 4 lần cây chè. Chúng tôi chú trọng tạo nông sản sạch, đồng thời xử lý đất bị nhiễm độc, phục hồi dinh dưỡng và độ màu của đất để nâng chất lượng sản phẩm đạt yêu cầu xuất khẩu.”
Nhờ ứng dụng công nghệ mới, các diện tích đồi cằn cỗi dần được hồi phục. Đồng thời, khu vực đất thoải sườn đồi được cải tạo thành ruộng bậc thang, giúp nha đam sinh trưởng tốt, chống xói mòn và cải thiện khả năng giữ nước, tăng hiệu quả dinh dưỡng cho cây. Anh Đoàn Tuấn Anh (Công ty WAO) giải thích: “Cây nha đam nặng 10 - 15 kg nếu không quy hoạch ruộng bậc thang sẽ dễ đổ. Hệ thống này vừa giúp cây phát triển tốt, vừa chống xói mòn và tăng khả năng thẩm thấu nước vào tầng đất sâu.”
Theo ông Nguyễn Xuân Việt, Chủ tịch UBND xã Long Cốc, “Chúng tôi hướng tới phát triển nông nghiệp xanh, tuần hoàn, gắn với du lịch, lấy chè làm chủ lực. Đồng thời mở rộng sang các sản phẩm khác như nha đam, ba kích, hoa sen, vừa tạo cảnh quan vừa đa dạng hóa sinh kế cho người dân.”
Việc ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp tại Long Cốc là minh chứng rõ nét cho chiến lược nâng cao giá trị sản phẩm, hiệu quả sản xuất và thu nhập cho nông dân. Những năm qua, tỉnh Phú Thọ đã tập trung dồn đổi ruộng đất, áp dụng kỹ thuật tiên tiến, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa năng suất cao, chất lượng ổn định và xây dựng đa dạng nông sản đạt chứng nhận OCOP.
Với diện tích rộng hơn 9.000 km² và dân số trên 4 triệu người, tỉnh Phú Thọ mới sở hữu lợi thế lớn về quỹ đất, nhân lực, cùng các tiểu vùng khí hậu và loại hình thổ nhưỡng đa dạng, đủ điều kiện phát triển gần như mọi sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường. Thêm vào đó, tỉnh được thừa hưởng nền tảng nông nghiệp công nghệ cao cơ bản từ các tỉnh cũ trước khi sáp nhập.
Từ nền tảng này, Phú Thọ mới cần hướng tới hình thành hệ sinh thái nông nghiệp công nghệ cao liên kết ba địa phương, bao trùm từ khâu giống, sản xuất, chế biến, logistics đến thị trường. Hệ thống này không chỉ tăng giá trị gia tăng trên mỗi ha canh tác, mà còn thúc đẩy phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường.
Trước mắt, tỉnh cần xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ quy mô vùng, cải cách hành chính, ưu đãi tín dụng, tạo quỹ đất và thu hút đầu tư trong nước, quốc tế theo mô hình liên kết “4 nhà”. Song song đó, tập trung tái quy hoạch và tích tụ ruộng đất, mở rộng vùng chuyên canh tối thiểu 500 - 1.000 ha, ưu tiên các vùng đã được cấp mã số để hình thành vùng sản xuất tập trung gắn công nghệ cao.
Đồng thời, tỉnh cần đẩy mạnh đầu tư hạ tầng kỹ thuật: hệ thống tưới tự động, nhà kính năng lượng tái tạo, kho lạnh, trung tâm logistics liên vùng; áp dụng nền tảng số để quản lý sâu bệnh, truy xuất nguồn gốc, thương mại điện tử và vận hành sản xuất qua cảm biến, bản đồ GIS. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua mô hình học viện hoặc liên kết với đại học, viện nghiên cứu trong và ngoài nước để đào tạo kỹ thuật hiện đại và tư duy sản xuất thông minh.
Hỗ trợ doanh nghiệp và hợp tác xã về vốn đầu tư, truy xuất nguồn gốc, quảng bá thương hiệu; kết nối doanh nghiệp - hợp tác xã - nông dân để xây dựng chuỗi giá trị khép kín; đồng thời đầu tư công nghệ chế biến, đóng gói, cấp mã truy xuất và phát triển thương hiệu “Phú Thọ mới - VietGAP/CNC”, mở rộng phân phối qua siêu thị, thương mại điện tử và xuất khẩu.
Với điều kiện tự nhiên, nguồn lực và tiềm năng thị trường, Phú Thọ mới hoàn toàn có cơ hội trở thành hình mẫu nông nghiệp công nghệ cao của cả nước. Yếu tố then chốt là xây dựng hệ sinh thái đồng bộ từ chính sách đến tổ chức sản xuất - chế biến - thị trường, ứng dụng công nghệ từ đầu, tránh manh mún và phát triển phân tán. Khi ba khu vực đồng lòng hướng về một tầm nhìn, Phú Thọ mới sẽ không chỉ là sự gộp nối địa lý mà còn là nơi nông nghiệp xanh, sáng tạo và hiện đại.