Việt Nam ký kết vay hơn 9,198 tỷ USD giai đoạn 2016 - 2017 

Theo thống kê, tổng vốn nước ngoài Việt Nam ký kết vay giai đoạn 2016 - 2017 là hơn 9,198 tỷ USD, trong đó vốn vay ODA 6,78 tỷ USD, vay ưu đãi 2,2 tỷ USD, viện trợ không hoàn lại 216,8 triệu USD. Trong đó, vốn vay ODA có lãi suất thấp, thời hạn vay dài thường từ 25 đến 40 năm và thời gian ân hạn hợp lý (5-10 năm). Với các ưu điểm này, vốn ODA giúp Việt Nam tiếp cận nguồn kỹ thuật, tri thức, đổi mới, sáng tạo và là đòn bẩy, chất xúc tác huy động nguồn vốn khác, đặc biệt nguồn vốn trong nước. 

“Tuy nhiên, vốn vay ODA bắt đầu bộc lộ hạn chế như lãi suất tăng dần. Nếu Việt Nam không cân nhắc kỹ có thể rơi vào bẫy “ODA và vay ưu đãi” khi lãi suất vay và phí thu xếp vốn cao hơn so với mức lãi suất vay thương mại trên thị trường vốn trong nước”, Bộ KH&ĐT cảnh báo.

Theo đó, Bộ KH&ĐT nêu dẫn chứng, một số khoản vay ưu đãi có kèm theo điều kiện ràng buộc về kỹ thuật, công nghệ, lựa chọn nhà thầu khiến chi phí vay thực tế có thể cao hơn nhiều so với đấu thầu cạnh tranh. Ngoài ra, rủi ro do tác động bất lợi của biến động tỷ giá. Năng lực hấp thụ viện trợ nước ngoài của ngành, địa phương và dự án cụ thể còn hạn chế. Các dự án vốn vay nước ngoài đều phải gia hạn, kéo dài thời gian thực hiện, chậm phát huy hiệu quả.

Bộ KH&ĐT nêu thực trạng điều chỉnh tăng vốn đầu tư gấp nhiều lần so với phê duyệt ban đầu ở các dự án, nhất là dự án đường sắt đô thị. Điển hình là dự án đường sắt đô thị đoạn Nhổn - ga Hà Nội vay Pháp, ADB tăng từ 783 triệu Euro lên hơn 1,17 tỷ Euro… Nguyên nhân chính của thực trạng này là thời gian bàn giao mặt bằng kéo dài, gây phát sinh chi phí. Đơn vị thi công chậm khiến trượt giá nguyên vật liệu, giá nhân công phải điều chỉnh; năng lực tư vấn kém. Các giải pháp thiết kế, tính toán chưa chính xác chi phí đầu tư hạng mục khiến tổng mức đầu tư tăng. 

Bất cập của nguồn vốn ODA từ các đối tác song phương

Vay nước ngoài của Chính phủ tập trung chủ yếu vào một số nhà tài trợ chính như: Ngân hàng Thế giới - WB (29%), Ngân hàng phát triển châu Á - ADB, Nhật Bản (34%), Trung Quốc (4%), Hàn Quốc (4%), Pháp (3%)…

leftcenterrightdel
 

Bộ KH&ĐT chỉ ra các điểm bất cập của nguồn vốn ODA từ các đối tác song phương, tiêu biểu là vốn vay từ Trung Quốc. Vốn vay ưu đãi của Trung Quốc cho Việt Nam tương tự các khoản vay tín dụng xuất khẩu, là các khoản vay có điều kiện (chỉ định thầu cho các doanh nghiệp Trung Quốc) và có điều kiện vay kém ưu đãi hơn so với ODA của các nhà tài trợ khác. Vốn vay Trung Quốc đi kèm điều kiện lãi suất khoảng 3%/năm, phí cam kết 0,5%, phí quản lý 0,5%, thời hạn vay 15 năm, thời gian ân hạn 5 năm và được cung cấp qua Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc (China Eximbank). 

Tín dụng ưu đãi của Trung Quốc chỉ phù hợp cho các dự án có nguồn thu trực tiếp, có khả năng trả nợ. Một số dự án sử dụng vốn vay, nhà thầu, thiết bị Trung Quốc thường xuyên chậm tiến độ, không đảm bảo chất lượng, tăng tổng mức đầu tư... ảnh hưởng hiệu quả đầu tư. Trong thời gian tới, cơ quan chức năng cần xem xét, cân nhắc việc vay nguồn vốn tín dụng ưu đãi từ Trung Quốc, Bộ KH&ĐT kiến nghị.

Bộ KH&ĐT cũng chỉ ra thách thức của Việt Nam trong huy động nguồn vốn cho phát triển kinh tế và giải quyết vấn đề xã hội, môi trường phát sinh của giai đoạn 2021-2025. Giai đoạn này, cơ cấu vốn đầu tư có sự chuyển dịch, giảm dần khu vực nhà nước khi quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước diễn ra mạnh mẽ với việc thoái vốn khỏi nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.

Vay ODA và vay ưu đãi chỉ nên chiếm 30-50% tổng mức đầu tư

Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng kiến nghị Chính phủ có quan điểm chỉ đạo trong thu hút và sử dụng vốn vay nước ngoài cho phát triển giai đoạn 2021-2025. Theo đó, chỉ cung ứng vốn ODA cho chương trình, dự án cần thiết kế với quy mô đủ lớn để phát huy hiệu quả tối đa, tác động lan tỏa mạnh, đáp ứng nhu cầu phát triển và tích cực đàm phán để tranh thủ tối đa các điều kiện ưu đãi. Các dự án cần kết hợp hài hoà giữa huy động vay trong nước và vay nước ngoài. Trong đó, vay nước ngoài chỉ nên tài trợ cho nhu cầu đầu tư cần đến ngoại tệ như: nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị.

Bộ KH&ĐT đề xuất vốn vay ODA và vay ưu đãi chỉ nên chiếm 30-50% tổng mức đầu tư dự án, đóng vai trò vốn “mồi”, chất xúc tác cho nguồn vốn khác. Ưu tiên sử dụng dự án trực tiếp thúc đẩy tăng trưởng gắn với phát triển bền vững, nhất là dự án có khả năng tạo nguồn thu ngoại tệ trong trung và dài hạn như: giải quyết nút thắt cơ bản về hạ tầng, nông nghiệp thông minh, kích thích hoạt động xuất khẩu… Hạn chế sử dụng vốn vay nước ngoài để tài trợ cho nhu cầu mua sắm nội địa, vì làm tăng nợ công nhưng không cải thiện năng lực trả nợ quốc gia.

Vốn ODA chỉ là kênh huy động ngoại tệ tạm thời. Lợi ích lớn nhất của vốn vay nước ngoài là có nguồn ngoại tệ để tiếp cận công nghệ, tài sản đầu tư và kiến thức chuyên môn tiên tiến. Về lâu dài, chúng ta cần có chiến lược để tiếp cận các yếu tố đó mà không cần ODA. Tức là Việt Nam cần tập trung xây dựng thị trường vốn trong nước, tiếp cận thị trường vốn nước ngoài và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nước để tiệm cận dần đến trình độ quốc tế, Bộ KH&ĐT kiến nghị.

Hoàng Thanh