Mỡ lợn (heo) bèo nhèo, vụn vặt, hôi thối được thu gom ngoài chợ về, không qua sơ chế, vệ sinh, được cắt khúc 5-10cm rồi cho thẳng vào chảo rán, rồi rót vào các can nhựa. Phần tóp mỡ được đựng trong những chiếc rổ, chậu đen kịt cáu bẩn bán cho dân bán đồ ăn chế biến sẵn.

 


Làm ăn nhỏ lẻ, chiến tích lớn

Lò sản xuất mỡ lợn phế phẩm, ôi thiu, của anh H nhỏ lẻ nhưng lại ăn nên làm ra bởi mỡ này được nhiều nhà hàng kinh doanh đồ ăn ưa chuộng, bên cạnh đó xưởng sản xuất thuê ở một địa điểm cách xa nhà, ít người chú ý, biết đến, trừ những mối làm ăn.

Hiện mỗi ngày lò sản xuất 50-60kg mỡ lỏng và tóp mỡ, nguồn mỡ lợn dùng để chế biến được anh H thu mua vào mỗi buổi tan chợ. Công việc chế biến mỡ thường diễn ra vào đầu giờ chiều, 1kg mỡ lợn, mỡ vụn, thịt ôi, bèo nhèo sẽ cho 4 - 5 lạng mỡ nước, một buổi làm hàng lò chế biến khoảng 10 - 15kg.

Khách hàng của nhà anh H là các quán cơm bình dân, quán bán đồ ăn chế biến sẵn, lò rán hành, rán quẩy, bánh... mà ngay cả các nhà hàng, quán bia cũng dùng loại mỡ lợn này. Mỡ nước có giá 16.000 - 18.000 đồng/kg; tóp mỡ có giá 50.000 - 60.000 đồng/kg. Tính ra so với giá mua nguyên liệu sau quá trình chế biến thì tiền thu về từ sản phẩm mỡ nước là “một vốn, bốn lời”.

“Dùng dầu ăn chế biến đồ ăn không ngon bằng mỡ lợn mà chi phí đắt gấp mấy lần. Dùng mỡ lợn để chiên rán nhiệt nóng hơn nhiều và thức ăn ngon và béo ngậy hơn. Mỡ và tóp bán rất chạy, làm ra đến đâu hết đến đấy, thậm chí nhiều hôm không có hàng để trả cho khách nhất là vào mùa đông, tóp mỡ dân làm hàng cơm, đồ ăn sẵn mua về gói lẫn vào nem, chả… lãi lắm”, anh H hào hứng phân tích.

 

Theo Lao Động

.