leftcenterrightdel
 Quang cảnh phiên làm việc của Quốc hội sáng 28/10. Ảnh: VPQH cung cấp.

Tiếp tục chương trình của Kỳ họp thứ 10, sáng 28/10, Quốc hội nghe Báo cáo tóm tắt kết quả giám sát chuyên đề của Quốc hội về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành”.

Báo cáo tóm tắt kết quả giám sát chuyên đề của Quốc hội về việc thực hiện Luật BVMT năm 2020 đã ghi nhận những bước chuyển mình quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển bền vững. Tuy nhiên, Đoàn giám sát cũng thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, hạn chế kéo dài và phức tạp, đặc biệt là tình trạng ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn, đòi hỏi những giải pháp quyết liệt và đồng bộ trong thời gian tới…

Nhiều kết quả tích cực

Trình bày báo cáo, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh – Phó Trưởng Đoàn Giám sát khẳng định, việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường (BVMT) kể từ khi Luật BVMT 2020 có hiệu lực đã đạt được nhiều kết quả tích cực, quan trọng.

leftcenterrightdel
 Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh – Phó Trưởng Đoàn Giám sát trình bày báo cáo. Ảnh: VPQH cung cấp.

Theo đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương đã ban hành hơn 500 văn bản hướng dẫn và triển khai thi hành Luật. Điều này đã cơ bản thể chế và cụ thể hóa đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quán triệt nguyên tắc môi trường là một trong ba trụ cột quan trọng ("Kinh tế - Xã hội - Môi trường") để phát triển bền vững.

Công tác BVMT đã có những chuyển biến mạnh mẽ, đạt và vượt nhiều mục tiêu, chỉ tiêu quan trọng đề ra tại Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Đặc biệt, Việt Nam đã vượt kế hoạch 3/5 chỉ tiêu đặt ra cho năm 2025, bao gồm: tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) đô thị, tỷ lệ khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt chuẩn, và tỷ lệ che phủ rừng. Đến cuối năm 2024, tỷ lệ thu gom, xử lý CTRSH ở đô thị đã đạt 97,26%, ở nông thôn đạt 80,5%, giảm đáng kể hình thức chôn lấp. Nguồn lực xã hội hóa và đầu tư từ doanh nghiệp cho BVMT có những chuyển biến tích cực, và ngân sách nhà nước chi cho sự nghiệp môi trường luôn được đảm bảo không thấp hơn 1% tổng chi NSNN (năm 2024 đạt 1,12%).

Các nguồn thải lớn đã được kiểm soát chủ động và chặt chẽ, không để xảy ra sự cố môi trường lớn. Trong giai đoạn 2022-2024, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thanh tra 812 cơ sở và xử phạt 96,7 tỉ đồng. Lực lượng Cảnh sát môi trường cũng tích cực điều tra, phát hiện, khởi tố 2.336 vụ/2.935 bị can…

Những “vết thương” dai dẳng cần được xử lý triệt để

Mặc dù có nhiều thành tựu, Đoàn giám sát nhận thấy, việc tổ chức thực hiện Luật BVMT năm 2020 vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, gây ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sống của người dân.

leftcenterrightdel
 Các đại biểu tham dự Phiên họp. Ảnh: VPQH cung cấp.

Theo đó, tình trạng ô nhiễm môi trường còn diễn biến phức tạp, có thời điểm nghiêm trọng, đặc biệt là ô nhiễm không khí (do bụi mịn) tại các thành phố lớn. Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có những lúc rơi vào nhóm đô thị ô nhiễm nhất thế giới, ảnh hưởng xấu tới sức khỏe người dân. Chất lượng môi trường nước mặt một số đoạn sông tập trung tại khu vực đông dân cư, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, làng nghề (như sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy, hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải) chậm được cải thiện.

Một mục tiêu quan trọng của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã không hoàn thành: đến tháng 9/2025, cả nước vẫn còn 38/435 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng chưa hoàn thành xử lý triệt để, thay vì mục tiêu 100%.

Bên cạnh đó, hạ tầng kỹ thuật về BVMT còn lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu. Hiện nay, chỉ có khoảng 18% tổng lượng nước thải đô thị được thu gom, xử lý. Tỷ lệ chôn lấp trực tiếp CTRSH vẫn còn cao, và nhiều bãi chôn lấp gây ô nhiễm môi trường chậm được xử lý. Đặc biệt, chỉ có 31,5% cụm công nghiệp và 16,6% làng nghề đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt yêu cầu.

leftcenterrightdel
  Các đại biểu tham dự Phiên họp. Ảnh: VPQH cung cấp.

Việc triển khai các chính sách mới về phân loại, thu gom, vận chuyển, tái chế và xử lý CTRSH chưa đúng lộ trình quy định và chưa hiệu quả do thiếu hạ tầng đồng bộ. Công nghệ sản xuất trong các cơ sở nhìn chung còn lạc hậu, tiêu tốn nhiều năng lượng, và việc nhập khẩu trái phép công nghệ cũ vẫn chưa được ngăn chặn triệt để.

Cùng với đó, tình trạng đơn thư khiếu nại, tố cáo về môi trường, tội phạm, vi phạm pháp luật về BVMT còn xảy ra, gây mất trật tự an toàn xã hội. Phần lớn việc giải quyết của chính quyền địa phương mới chỉ dừng lại ở mức yêu cầu chủ đầu tư hạn chế tác động xấu, chưa có những giải pháp căn bản để giải quyết dứt điểm. Một phần nguyên nhân là do nhận thức và ý thức trách nhiệm của một số cấp ủy đảng, chính quyền, doanh nghiệp và người dân chưa đầy đủ, còn tư tưởng ưu tiên tăng trưởng kinh tế mà xem nhẹ BVMT…

Đề xuất một số giải pháp đột phá và nhiệm vụ cấp bách đến cuối năm 2026

Trước những tồn tại, hạn chế trên, Đoàn giám sát đã đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp đột phá, cấp bách, cũng như trung và dài hạn nhằm chuyển đổi mạnh mẽ công tác BVMT.

Nhiệm vụ đột phá đầu tiên là đổi mới tư duy, quán triệt sâu sắc quan điểm coi chi cho môi trường là đầu tư cho phát triển, đảm bảo an ninh môi trường, và loại bỏ quan điểm "BVMT sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế".

leftcenterrightdel
  Các đại biểu tham dự Phiên họp. Ảnh: VPQH cung cấp.

Bên cạnh đó, cần thúc đẩy mạnh mẽ mô hình kinh tế tuần hoàn và thực hiện chuyển đổi xanh thông qua cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển công nghệ thân thiện môi trường, công nghiệp môi trường, và mua sắm xanh.

Việc "kinh tế hóa môi trường" cần được áp dụng triệt để, bằng cách thiết lập cơ chế định giá tài nguyên, chi trả dịch vụ hệ sinh thái, và nâng cao hiệu quả của thuế, phí môi trường.

Đặc biệt, phải áp dụng nguyên tắc "Người gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải chi trả, bồi thường thiệt hại, khắc phục, xử lý" một cách triệt để.

Đoàn giám sát đề nghị Quốc hội và Chính phủ thực hiện một số giải pháp cấp bách đến cuối năm 2026: Khẩn trương xem xét sửa đổi ngay một số điều của Luật tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội (2025) để khơi thông nguồn lực; Ban hành và triển khai hiệu quả Kế hoạch hành động quốc gia về khắc phục ô nhiễm không khí giai đoạn 2025–2030; Khẩn trương hoàn thành và đưa vào vận hành hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia, bảo đảm tích hợp, kết nối, liên thông, và công khai cho cộng đồng.

Về mục tiêu dài hạn đến năm 2030, theo Đoàn Giám sát, đến năm 2030, các mục tiêu cụ thể được đặt ra nhằm nâng cao chất lượng môi trường có trọng tâm, trọng điểm: Phấn đấu đến năm 2030, tại TP. Hà Nội, nồng độ bụi PM2.5 trung bình năm giảm khoảng 20% so với mức trung bình năm 2024; Phấn đấu đến năm 2030, tỷ lệ nước thải sinh hoạt tại các đô thị loại I trở lên được thu gom, xử lý đạt khoảng 70%. Tỷ lệ CTRSH đô thị được thu gom, xử lý đạt 95%, tỷ lệ CTRSH nông thôn đạt 85%; tỷ lệ CTRSH được xử lý bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp giảm xuống dưới 50%.

Cùng với đó, cần phòng ngừa và xử lý vi phạm, tăng cường kiểm tra, thanh tra, và nâng cao chế tài xử lý để đảm bảo tính răn đe, đồng thời tập trung xử lý dứt điểm các vụ khiếu kiện phức tạp về môi trường ngay từ cơ sở; Thực hiện lộ trình chuyển đổi xanh phù hợp trong hoạt động giao thông vận tải, có biện pháp loại bỏ phương tiện cơ giới không đủ tiêu chuẩn lưu hành gây ô nhiễm môi trường…

Vũ Cảnh