Sửa Luật là cần thiết
Theo Bộ Nội vụ, sau gần 10 năm thi hành Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, 4 năm thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019, 3 năm sơ kết thi hành các Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng cho thấy nhìn chung tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương các cấp đã dần đi vào ổn định, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, cơ bản đáp ứng được các yêu cầu quản lý, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Bên cạnh đó, quá trình tổ chức thi hành các luật, nghị quyết nêu trên đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Cụ thể, mặc dù Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) đã quy định những vấn đề cơ bản về phân định thẩm quyền, phân cấp, phân cấp, ủy quyền, tuy nhiên quá trình thực hiện cho thấy một số nội dung quy định tại Luật còn bất cập, chưa có sự liên thông, thống nhất giữa quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương với các luật chuyên ngành, ảnh hưởng đến việc thực hiện chủ trương đẩy mạnh phân cấp, phân quyền từ Trung ương đến địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương.
Các quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương chưa tạo thành các nguyên tắc để pháp luật chuyên ngành điều chỉnh cách thức quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương, dẫn đến tình trạng tại các luật chuyên ngành chỉ giao nhiệm vụ cho chính quyền địa phương cấp tỉnh hoặc UBND cấp tỉnh, hoặc chỉ quy định chung về nhiệm vụ của chính quyền địa phương các cấp, gây khó khăn trong việc thực hiện nguyên tắc phân quyền, phân cấp, ủy quyền và việc sắp xếp, bố trí tổ chức bộ máy, biên chế trong các cơ quan của chính quyền địa phương.
Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp cơ bản giống nhau, chưa phân biệt rõ theo từng cấp (tỉnh, huyện, xã) và theo đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo; chưa phân định rõ thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương. Có những nhiệm vụ cả cấp tỉnh, cấp huyện hoặc cả cấp huyện, cấp xã cùng thực hiện nhưng chưa rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp dẫn đến lúng túng trong việc ban hành các quy định về quản lý nhà nước tại địa phương và chưa đáp ứng yêu cầu phát triển bảo đảm phù hợp với đặc điểm của các địa bàn, vùng, miền khác nhau.
Mô hình tổ chức chính quyền địa phương chưa được thiết kế phù hợp với địa bàn đô thị dẫn đến Quốc hội phải ban hành các Nghị quyết riêng biệt để quy định tổ chức chính quyền đô thị của Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng. Đa số các đơn vị hành chính (ĐVHC) trên cả nước đều tổ chức cấp chính quyền địa phương gồm HĐND và UBND; tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương các cấp còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, chưa bảo đảm mục tiêu tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả theo chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ.
|
|
Quang cảnh một kỳ họp chuyên đề của HĐND Thành phố Hà Nội. (Ảnh minh hoạ) |
Đối với các thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức chính quyền đô thị, quá trình tổ chức thực hiện bước đầu đã mang lại những kết quả tích cực; mặc dù vậy, mô hình chính quyền đô thị vẫn tồn tại một số vướng mắc, bất cập như: Việc thực hiện nguyên tắc, chế độ trách nhiệm trong thực thi công vụ của Chủ tịch UBND (người đứng đầu cơ quan hành chính địa phương) còn chưa rõ nét; mức độ tự chủ về ngân sách và biên chế còn hạn chế, tác động đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền đô thị,…
Tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp (nhất là cấp tỉnh) còn chưa tương xứng với vị trí, vai trò và yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao của cơ quan đại diện, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, quyết định các vấn đề của địa phương, thực hiện giám sát và xu thế đẩy mạnh phân quyền từ Trung ương cho địa phương.
Tổ chức và hoạt động của UBND các cấp còn chưa tinh gọn, hoạt động của UBND (nơi có tổ chức HĐND) vẫn còn nặng về sự điều hành của tập thể UBND mà chưa phát huy được thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính (Chủ tịch UBND) dẫn đến nhiều công việc hàng ngày của UBND cũng phải đưa ra tập thể UBND bàn hoặc biểu quyết, làm ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả, tính kịp thời của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
Do đó, theo Bộ Nội vụ, việc xây dựng dự án Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi) để sửa đổi toàn diện nhằm thay thế Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) là cần thiết.
Đẩy mạnh phân quyền giữa cơ quan nhà nước ở Trung ương với địa phương
Theo cơ quan chủ trì, việc xây dựng Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi) nhằm sửa đổi căn bản, toàn diện và hợp lý các quy định về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương để cụ thể hoá đầy đủ quy định của Hiến pháp năm 2013 và thể chế hoá các chủ trương, định hướng trong các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng, nhằm tiếp tục đổi mới chính quyền địa phương theo hướng đẩy mạnh phân quyền giữa cơ quan nhà nước ở Trung ương với địa phương, tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm sự thống nhất, thông suốt của nền hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở.
Về bố cục, dự thảo Luật gồm 8 chương, 70 điều (giảm 73 điều so với Luật hiện hành). Trên cơ sở kế thừa các quy định còn phù hợp của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) và cụ thể hoá 5 chính sách tại Đề nghị xây dựng dự án Luật đã được Chính phủ thông qua. Trong đó, dựng dự thảo Luật có nhiều điểm mới về tổ chức đơn vị hành chính, thành lập, giải thể, nhập chia, điều chỉnh địa giới ĐVHC.
Cùng với đó, dự thảo Luật đã dành một chương riêng về phân định thẩm quyền, phân quyền, phân cấp, ủy quyền giữa chính quyền địa phương các cấp (Chương III).
Đồng thời, quy định rõ về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp; về mô hình tổ chức chính quyền địa phương; về cơ cấu tổ chức và hoạt động của HĐND, UBND các cấp.
Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương, dự thảo Luật quy định các nguyên tắc gồm: Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân.
Bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương.
Quản trị địa phương hiện đại, minh bạch, bảo đảm trách nhiệm giải trình.
Tổ chức chính quyền địa phương tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả.
Bảo đảm nền hành chính thống nhất, thông suốt, liên tục.