(BVPL) - Dự thảo Hiến pháp năm 1992 do Uỷ ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp công bố và đưa ra lấy ý kiến nhân dân gồm Lời nói đầu và 11 chương, 124 điều, đã quán triệt được các tư tưởng chủ đạo thể hiện trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để đất nước ta có bước phát triển toàn diện, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Một trong những điểm mới, tiến bộ của dự thảo Hiến pháp lần này là các quy định về kiểm soát quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy, kiểm soát quyền lực nhà nước với cơ chế như thế nào và phương pháp thực hiện ra sao thì dự thảo còn thiếu cụ thể, khá mờ nhạt. Để góp phần hoàn thiện dự thảo Hiến pháp, TS. Dương Thanh Biểu, nguyên Phó Viện trưởng VKSNDTC (ảnh bên) đã có cuộc trao đổi với PV báo BVPL đề cập đến việc xác định thiết chế kiểm soát quyền lực Nhà nước bằng chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
PV: Việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đang được lấy ý kiến rộng rãi của đông đảo người dân, nhằm tập trung cao trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân. Xin Tiến sỹ cho biết, những diễn biến tình hình thực tiễn của đời sống chính trị - xã hội với yêu cầu sửa đổi Hiến pháp gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước?
|
Tiến sỹ Dương Thanh Biểu. |
Tiến sỹ Dương Thanh Biểu: Dự thảo Hiến pháp sửa đổi quy định về chức năng, nhiệm vụ của VKSND: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp” (khoản 1 Điều 113, (sửa đổi, bổ sung Điều 126, Điều 137) dự thảo Hiến pháp sửa đổi). Như vậy, về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân so với quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) cơ bản không có gì thay đổi. Trong lúc đó, quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã có nhiều thay đổi so với trước đây. Cho nên, khi xem xét chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước nói chung và của VKSND nói riêng cần phải được nghiên cứu thật kỹ để vừa quán triệt các quan điểm chỉ đạo của Đảng, đồng thời phù hợp với xây dựng mô hình Nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới.
Hiến pháp năm 1992 là sự thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) quy định. Khi đề cập việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lần đầu tiên, Cương lĩnh trên đã xác định, để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải xây dựng Nhà nước với đặc điểm về tính thống nhất và sự phân công giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp: Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó (Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng: Thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, ngày 27-6-1991).
Đến năm 1995, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền đã bước sang thời kỳ mới, Ban chấp hành Trung ương đã xác định rõ hơn về quan điểm phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc sử dụng quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) ngày 23/01/1995).
Việc xác định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước là một bước tiến bộ rất lớn trong quá trình nhận thức tư duy về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện cụ thể ở nước ta.
Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện chủ trương về phân công và phối hợp trong việc sử dụng quyền lực nhà nước đã xuất hiện tình hình mới. Đó là tình trạng lạm dụng quyền lực nhà nước đang diễn ra phức tạp, dẫn đến chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc... Đại hội XI của Đảng ta đã chỉ rõ: Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp… Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên… (Báo cáo Chính trị trình Đại hội XI của Đảng).
Như chúng ta đều biết, quyền lực gắn liền với lợi ích. Do vậy, người được giao nắm quyền lực lại mong muốn quyền lực đó ngày càng được tăng lên vô hạn và luôn mong muốn quyền lực của mình được phát huy, lan tỏa trên một bình diện rộng lớn cả không gian và thời gian. Trong nền kinh tế thị trường, nhất là trong điều kiện hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, việc sử dụng quyền lực nhà nước không được kiểm soát chặt chẽ, tất yếu sẽ dẫn đến sự tha hóa và lạm dụng quyền lực. Đây là nguy cơ dẫn đến tình trạng lạm quyền, tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm, vi phạm các quyền dân chủ của công dân, tùy tiện, cục bộ bản vị trong thực thi pháp luật, quan liêu, xa rời quần chúng… Ngay từ những ngày đầu giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy được nguy cơ của việc lạm dụng quyền lực, nên Người đã cảnh báo về căn bệnh quan liêu, xa rời quần chúng, kiêu ngạo, chủ nghĩa cá nhân, xu nịnh, tham ô, hối lộ trong cán bộ, đảng viên. Do vậy, chỉ một năm sau khi giành được độc lập, Bác Hồ đã ban hành Sắc lệnh trừng trị tội tham ô và đưa, nhận hối lộ. Đây là Đạo luật chống tham nhũng đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Sắc lệnh trên quy định: Xử phạt đối với tội đưa hối lộ cho công chức, tội công chức nhận hối lộ, biển thủ công quĩ hoặc của công dân (Sắc lệnh 223 ngày 27/11/1946).
Trong điều kiện hiện nay, kế thừa những hạt nhân hợp lý của thuyết phân quyền, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta quy định một điểm mới là việc sử dụng quyền lực nhà nước phải có kiểm soát: Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
Đây là lần đầu tiên Đảng ta đưa ra quan điểm kiểm soát quyền lực. Phân công và kiểm soát quyền lực là nền tảng của Hiến pháp trong thời kỳ quá độ. Để thể chế quan điểm trên đây, dự thảo Hiến pháp quy định: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (khoản 2 Điều 2, dự thảo Hiến pháp). Tuy nhiên, việc xác định cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước như thế nào thì dự thảo Hiến pháp chưa được thể hiện rõ nét. Trong lúc đó, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan của Quốc hội, có khả năng và điều kiện để giúp Quốc hội trong việc kiểm soát quyền lực nhưng dự thảo Hiến pháp chưa có quy định gì mới với tư cách là một thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
PV: Kiểm soát quyền lực Nhà nước là để hạn chế việc lạm quyền của bất cứ chế độ Nhà nước nào. Tuy nhiên, thực tế tình trạng tham nhũng, tham ô vẫn diễn ra còn khá phổ biến, nhiều vụ chậm được phát hiện, thậm chí đã thanh tra vẫn không phát hiện được sai phạm. Theo Tiến sỹ, để hạn chế tình trạng trên, thiết chế kiểm soát quyền lực Nhà nước của VKSND nên được quy định trong Hiến pháp sửa đổi lần này như thế nào cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu cuộc sống?
Tiến sỹ Dương Thanh Biểu: Để hạn chế việc lạm dụng quyền lực, nhà nước của bất kỳ chế độ nào cũng quan tâm đến vấn đề kiểm soát quyền lực. Hiến pháp các nước theo thuyết tam quyền phân lập quy định rõ ràng các quyền về lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong đó, quy định rất rõ về cơ chế kiểm soát chặt chẽ làm đối trọng giữa ba nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhiều nước đã thành lập cơ quan thanh tra của Quốc hội, có chức năng giúp Quốc hội giám sát bộ máy hành chính công trong việc thực thi pháp luật theo các luật của Quốc hội. Khi phát hiện cơ quan hành chính công có vi phạm pháp luật thì có quyền điều tra, xem xét, kết luận và xử lý nhằm lập lại trật tự pháp luật. Một số quốc gia thì thành lập Tòa án Hiến pháp, có thẩm quyền tài phán những hành vi vi hiến. Một số quốc gia thành lập Uỷ ban phòng chống tham nhũng…
Dự thảo Hiến pháp sửa đổi lần này đã bổ sung ba thiết chế hiến định độc lập mới: Hội đồng Hiến pháp; Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước (Chương X, phương án 2, dự thảo Hiến pháp). Trong đó, theo Luật Kiểm toán Nhà nước thì Kiểm toán Nhà nước có chức năng: Kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước (Điều 14 Luật Kiểm toán Nhà nước). Như vậy, hoạt động của Kiểm toán Nhà nước chủ yếu đi vào lĩnh vực phân bổ, quản lý và sử dụng ngân sách Nhà nước.
Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội Khóa XIII, khi thảo luận về dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi, nhiều đại biểu cho rằng, để đảm bảo thực hiện quyền giám sát của Quốc hội, dự thảo Hiến pháp không nên chỉ giới hạn ba cơ quan trên đây, với tư cách là thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước (Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước) mà cần mở rộng thêm. Có đại biểu cho rằng, muốn thật sự kiểm soát quyền lực có kết quả thì nên thành lập Tòa án Hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến có thẩm quyền tài phán những hành vi vi phạm Hiến pháp. Có đại biểu lại cho rằng, nên thành lập Uỷ ban phòng chống tham nhũng. Đặc biệt, có nhiều đại biểu đề nghị, cần nghiên cứu, mở rộng chức năng của Viện kiểm sát nhân dân, không chỉ kiểm sát hoạt động tư pháp mà nên trao cho VKSND chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các cơ quan, tổ chức và đơn vị như quy định của Hiến pháp trước năm 2001.
Trước năm 2001, Hiến pháp quy định: Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm do luật định (Điều 137 Hiến pháp năm 1992). Hàng năm, căn cứ vào các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, toàn ngành Kiểm sát đã tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng và đã phát hiện nhiều vi phạm pháp luật. Viện kiểm sát các cấp đã phát hiện nhiều vi phạm pháp luật không chỉ trong lĩnh vực kinh tế - xã hội mà còn cả trong việc bảo vệ quyền công dân... Trên cơ sở những vi phạm này, ngành Kiểm sát đã có nhiều kháng nghị với cơ quan chủ quản khắc phục vi phạm và thu hồi nhiều tài sản cho nhà nước, khởi tố nhiều vụ án hình sự và dân sự… Trên cơ sở kết quả kiểm sát, Viện trưởng VKSNDTC đã có nhiều kiến nghị với Chính phủ, các bộ để chỉ đạo khắc phục các vi phạm. Viện trưởng VKSNDTC đã tổng hợp các vi phạm pháp luật và đã báo cáo trước Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tình hình chấp hành pháp luật của các cơ quan thuộc Chính phủ, các chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế-xã hội… được cử tri cả nước quan tâm, ủng hộ. Từ năm 2001 đến nay, căn cứ Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001), chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân được chuyển giao cho các cơ quan Bộ Tư pháp (kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật) và Thanh tra Chính phủ thực hiện.
Hiện nay, tình hình vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng…đang diễn ra phức tạp tại các cấp, các ngành, trong đó có không ít vụ vi phạm pháp luật là do việc lạm dụng quyền lực gây ra, nhưng kết quả phát hiện, xử lý còn rất ít. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình hình trên đây là, tuy cơ quan Thanh tra được thành lập ở các cấp, các ngành, nhưng đều thực hiện nhiệm vụ theo sự chỉ đạo của chính quyền các cấp – đây là cơ chế kiểm tra mang tính chất nội bộ, chứ không phải là thiết chế kiểm soát quyền lực của Quốc hội - thì không thể phát hiện sai phạm một cách khách quan được. Hay nói cách khác, từ khi Viện kiểm sát nhân dân thôi không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, Quốc hội đã để mất đi cơ chế cần thiết và quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm soát quyền lực nhà nước của mình.
Trong các cơ quan nhà nước, Viện kiểm sát nhân dân được Quốc hội tổ chức thành hệ thống cơ quan độc lập và hoạt động của cơ quan này được điều chỉnh theo những nguyên tắc đặc thù. Trong đó, có nguyên tắc đã được hiến định: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu và chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (khoản 1, 2 Điều 114 dự thảo Hiến pháp).
Khi thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên chỉ tuân theo pháp luật, không chịu sự can thiệp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân (Điều 115, phương án 1, dự thảo Hiến pháp).
Mặt khác, Viện kiểm sát nhân dân không chỉ là cơ quan do Quốc hội thành lập, chịu trách nhiệm trước Quốc hội, mà còn là một trong những cơ quan đang thực hiện Chiến lược Cải cách tư pháp, do Chủ tịch nước làm Trưởng Ban chỉ đạo, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là Uỷ viên Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng của Trung ương…Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan nhà nước được tổ chức thành hệ thống độc lập, chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội, Chủ tịch nước và Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng. Như vậy, trong điều kiện kinh tế và chính trị hiện nay, Viện kiểm sát nhân dân là thiết chế có điều kiện thuận lợi để thực hiện nhiệm vụ của Quốc hội về kiểm soát quyền lực Nhà nước.
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XNCN Việt Nam, việc hoàn thiện mô hình tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, với tư cách là một thiết chế giúp Quốc hội giám sát thực hiện quyền lực nhà nước là yêu cầu bức thiết. Có thể nói, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật không chỉ là thiết chế có điều kiện phát hiện vi phạm pháp luật, góp phần trong việc kiểm soát sử dụng quyền lực nhà nước mà còn là kênh thông tin rất quan trọng giúp Quốc hội và cử tri nắm bắt một cách nhanh chóng, chính xác về tình hình chấp hành pháp luật và kết quả đấu tranh phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật. Cùng với việc xây dựng các thiết chế hiến định khác, việc giao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực kinh tế - xã hội sẽ tạo thành hệ thống kiểm tra, giám sát, kiểm soát hữu hiệu quyền lực Nhà nước.
Trước đây, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đã phục vụ có hiệu quả công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ngày nay, trước tình hình tiêu cực trong việc lạm dụng quyền lực đang có chiều hướng phát triển nghiêm trọng thì không có lý do gì chúng ta không tiếp tục giao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, góp phần kiểm soát hữu hiệu quyền lực nhà nước. Đây không chỉ là sự thể hiện quyết tâm cao về chính trị, năng lực trí tuệ về sáng kiến lập hiến mà còn là sự chia sẻ, thấu hiểu với tâm tư, nguyện vọng của cử tri cả nước về công tác đấu tranh chống lại sự lạm dụng quyền lực để mưu cầu lợi ích cá nhân trong cán bộ, đảng viên hiện nay. Từ phân tích trên đây, chúng tôi đề nghị cần xem xét giao cho ngành Kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật như quy định của các Hiến pháp trước năm 2001.
PV: Theo Tiến sỹ, nếu quy định VKSND có thẩm quyền thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật được thực thi, liệu có xảy ra tình trạng chồng chéo với công tác thanh tra mà thực tế chúng ta đang thi hành hay không?
Tiến sỹ Dương Thanh Biểu: Trước đây, khi xây dựng Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001), một trong những lý do Viện kiểm sát nhân dân thôi không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật để tập trung lực lượng làm tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là tránh chồng chéo với công tác thanh tra.
Hiện nay, trong công tác quản lý nhà nước, đang có tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa các ngành, các cấp. Đó là thực tế. Vì vậy, như trên đã đề cập, hoạt động của các cơ quan Nhà nước phải có cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát chặt chẽ. Thẩm quyền phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước là của Quốc hội (Điều 75,76 Dự thảo Hiến pháp). Ví dụ, ngày 13/11/2012, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 37/2012/QH13 về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm. Trong đó, Quốc hội đã phân công nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao. Trên cơ sở Nghị quyết này, các ngành đã có chương trình, kế hoạch thực hiện. Theo tôi, đối với công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật và công tác thanh tra cũng vậy, nếu được Quốc hội có nghị quyết phân công, phối hợp cụ thể như nghị quyết trên đây thì sẽ khắc phục được tình trạng chồng chéo.
Vì lý do này mà hiện nay có nhiều ý kiến đề nghị nên giao cho ngành Kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật với tư cách là một thiết chế kiểm soát quyền lực Nhà nước. Tại hội nghị toàn quốc của ngành Kiểm sát nhân dân về tổng kết thực tiễn thi hành Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, đồng chí Trương Tấn Sang, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trưởng Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, đã phát biểu: “Việc nghiên cứu, sửa đổi Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Bộ luật tố tụng hình sự phải quán triệt đầy đủ, đúng đắn quan điểm, chủ trương cải cách tư pháp thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng. Đặc biệt, một trong những nội dung quan trọng của Cương lĩnh và Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ là phải bảo đảm sự kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Qua thảo luận cho ý kiến lần đầu về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, nhiều đại biểu Quốc hội cũng đã thể hiện ý chí là phải tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước. Không ít ý kiến của đại biểu Quốc hội đề nghị cần xem xét việc giao lại chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội (kiểm sát chung) để ngành Kiểm sát nhân dân tiếp tục thực hiện nhằm khắc phục những bất cập trong cơ chế kiểm tra, giám sát hiện nay ở Nhà nước ta. Từ những vấn đề gợi mở nêu trên, đề nghị các đồng chí tiếp tục nghiên cứu, tích cực đóng góp ý kiến vào quá trình sửa đổi Hiến pháp thời gian tới và cụ thể hóa trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) tới đây”.
PV: Xin cảm ơn Tiến sỹ!
An Khánh (thực hiện)