Trong số các đàn một dây trên thế giới, đàn Bầu của Việt Nam được đánh giá là rất đặc sắc, độc đáo… bởi lẽ đàn Bầu là đàn duy nhất phát ra âm thanh là âm bồi; chỉ có một dây, không có phím bấm nhưng có thể chơi được tất cả các cao độ...
Đàn Bầu Việt Nam là rất đặc sắc, độc đáo...
PGS. TS. NGƯT Nguyễn Bình Định - Viện trưởng Viện Âm nhạc Việt Nam chia sẻ rằng, trên thế giới có hơn 10 loại đàn một dây, phân bố nhiều nhất là ở châu Á rồi đến châu Phi và một số nước ở miền Nam châu Âu. Các loại đàn một dây thuộc chi dây gảy có các loại như: đàn Kingri, đàn Ektar, đàn Tuntune, đàn Gopicand của Ấn Độ; đàn Bầu của Việt Nam; đàn Tushuenkin (Độc huyền cầm) của Trung Quốc; đàn Ichigenkin (Nhất huyền cầm) của Nhật Bản; đàn Xađiu (còn đọc là Xa-đi-ơ) của Căm pu chia; 3 loại đàn Cung ở Trung Phi, Đông Phi, Nam Phi; đàn một dây ở Indonesia, ở Madagasca… Đàn một dây thuộc chi dây kéo có các loại như: Đàn Rababa ở các nước A rập; đàn Orutu ở Kenya, Uganda; đàn Gusle (có 3 loại) ở Serbi, Croatia, Montenegro…
|
Trong số các đàn một dây trên thế giới, đàn Bầu của Việt Nam được đánh giá là rất đặc sắc, độc đáo… bởi lẽ đàn Bầu là đàn duy nhất phát ra âm thanh là âm bồi... Ảnh: TL. |
Trong số các đàn một dây trên thế giới, đàn Bầu của Việt Nam được đánh giá là rất đặc sắc, độc đáo… bởi lẽ đàn Bầu là đàn duy nhất phát ra âm thanh là âm bồi; chỉ có một dây, không có phím bấm nhưng có thể chơi được tất cả các cao độ (kể cả các âm có cao độ tuyệt đối và các âm có cao độ tương đối với các mức độ non già tùy ý); có khả năng trình diễn tất cả các kỹ thuật rung, nhấn, đặc biệt là các dạng luyến láy, tô điểm âm khác nhau nên rất phù hợp với kiểu giai điệu âm nhạc có nhiều âm hoa mỹ, luyến láy của Việt Nam.
Do sử dụng kỹ thuật uốn vòi đàn (có người gọi là cần đàn), tạo ra sự căng chùng khác nhau của dây đàn nên đàn Bầu là nhạc cụ duy nhất trên thế giới làm được việc với một lần kích âm có thể cho một âm cơ bản và các âm khác có cao độ cao hơn hoặc thấp hơn âm cơ bản ấy tới một quãng 5 (các nhạc cụ khác không thể làm ra được các âm có cao độ thấp hơn âm cơ bản với một lần kích âm vì không có kỹ thuật làm chùng dây đàn).
Đồng quan điểm, GS Trần Quang Hải cũng cho rằng, Trung Quốc có Độc huyền cầm, Nhật Bản có Ichigenkin (nhất huyền cầm), Ấn Độ có Gopi Yantra, Cao Miên có Sadiou... Tất cả những cây đàn một dây đó không có cây nào sử dụng bồi âm như đàn Bầu của Việt Nam.
Theo GS Trần Quang Hải, cây đàn bầu là nhạc cụ “đặc hữu” của Việt Nam từ rất xa xưa và gắn liền với đời sống của người dân. Trong kho tàng âm nhạc Việt Nam có các bài bản cho đàn Bầu dựa trên các bài dân ca quan họ, lý, hát ru, dân ca cải biên, chèo, tuồng, múa rối nước, ca Huế, đờn ca tài tử Nam bộ.... Ngoài ra, đàn Bầu còn dùng để đệm cho ngâm thơ, hoặc độc tấu, song tấu, tứ tấu, ngũ tuyệt, dàn nhạc giao hưởng dân tộc. Các nhạc sĩ Việt Nam đã sáng tác những bản cho đàn bầu như: Vì miền Nam (Huy Thục), Niềm Tin Tất Thắng (Khắc Chí), Hồi tưởng (Xuân Thi), Đối thoại (Đỗ Hồng Quân), Dòng kênh trong (Hoàng Đạm), Buổi sáng sông Hương, Cung đàn đất nước (Xuân Khải), Gửi Thu Bồn, Quê mẹ (Khắc Chí), Gửi Huế mến yêu (Đình Long), Gửi đến Ngự Bình (Quốc Lộc), Thoáng quê ( Thanh Tâm), Câu hát mẹ ru (Phú Quang)...
Đàn Bầu Việt Nam có từ bao giờ?
GS Trần Quang Hải cho biết, tìm hiểu trong thư tịch và hiện vật khảo cổ học cũng như lịch sử chữ viết có một số sách sử quan trọng có đề cập đến đàn Bầu. Theo An Nam chí lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Chỉ Nam Ngọc âm giải nghĩa, Đại Nam thực lục tiền biên, Tân Đường thư, Cựu Đường Thư... cây Đàn Bầu ra đời xuất phát điểm ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, sau đó được người Kinh Việt Nam mang sang Quảng Tây Trung Quốc.
Trong “Đại Nam thực lục tiền biên” (bộ sử của nhà Nguyễn) ghi cây đàn Bầu đã được sáng tạo từ năm 1770, trải qua gần 250 năm, đặc biệt là từ năm 1956 (ngày thành lập Học Viện âm nhạc quốc gia Hà Nội), đàn Bầu được phát triển nhanh chóng với những khóa dạy đàn bầu ở Học viện, những nghệ nhân trình diễn trong và ngoài nước, cải tiến đàn bầu từ hình dáng tới kỹ thuật, sáng tác bài bản mới, tạo một chỗ đứng cao cấp cho nhạc cụ này (được coi là “hoàng tử” nhạc cụ Việt Nam).
|
Theo GS Trần Quang Hải, cây Đàn Bầu ra đời xuất phát điểm ở vùng đồng bằng Bắc Bộ - Việt Nam. Ảnh: TL. |
Cây đàn Bầu cũng từng được các nghệ sĩ mù ở Hà Nội dùng phụ đệm hát xẩm ở các chợ trời từ cuối thế kỷ thứ 19. Do đó đàn này còn được gọi là “đàn xẩm”. Đàn Bầu được đưa vào dàn nhạc cung đình Huế từ cuối thế kỷ 19 và xuất hiện trong dàn nhạc tài tử Nam bộ từ năm 1930...
Theo nhà nghiên cứu Hoàng Yến, năm 1892, đàn Bầu mới được những người hát xẩm phía Bắc đưa vào xứ Huế để ca khúc đệm đàn cho một số bộ phận vương quan tiến bộ yêu thích thanh âm trong trẻo, nỉ non đó. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Vua Thành Thái – một trong ba vị vua yêu nước thời Pháp thuộc, ông yêu tiếng đàn Bầu như hơi thở quê hương xứ An Nam, lúc đó đàn Bầu mới được thay thế đàn tam trong ngũ tuyệt tranh-tỳ-nhị-nguyệt và bầu.
Đàn bầu có mặt trong dàn đờn tài tử nam bộ từ năm 1930 do những người miền Trung vào miền Nam khai khẩn đất hoang vào cuối thế kỷ XIX. Đàn Bầu được gọi là “đờn một dây” hay “đờn độc huyền”.
PGS Nguyễn Bình Định lại cho rằng, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có đủ cứ liệu để xác định một cách chính xác đàn Bầu có từ bao giờ. Có người thì cho rằng, đàn Bầu ra đời ở khoảng thế kỷ IX- X, có người còn đưa ra con số cụ thể là đàn Bầu được chế tạo vào năm 1770... Tuy chưa có giả thuyết nào được khẳng định là chính xác nhưng chúng ta có thể nói đàn Bầu là nhạc cụ bản địa của người Việt, đã có từ lâu đời, ít nhất cũng phải có trước thế kỷ XIX.
Sớm xác lập "chủ quyền" cho đàn Bầu
Theo GS Trần Quang Hải, vài năm nay ở Trung Quốc đã có những festival nhạc dân tộc với những màn biểu diễn đàn bầu. Trên trang web China Daily USA đăng bài cùng hình ảnh của Xinhua với chú thích “Hàng trăm người dân tộc Kinh thiểu số cùng chơi đàn độc huyền cầm” trong một lễ hội truyền thống ở Trung Quốc. Bài viết nói rằng tộc người Kinh (Jing) này đã di cư từ Việt Nam sang Trung Quốc từ khoảng 500 năm trước và hiện tộc người này có khoảng 22.000 người.
|
Trong dàn nhạc dân tộc, đàn Bầu được gọi là "hoàng tử" của các loại đàn. Ảnh: TL. |
Trung Quốc đã gửi nhạc công sang Việt Nam học đàn Bầu, mời một số nhà nghiên cứu sưu tầm tài liệu để viết về đàn bầu và đưa lên mạng thông tin đàn Bầu rất được người dân tộc Kinh (ở Trung Quốc) yêu thích.
Nhạc sĩ Đức Trí, người đã nhiều năm theo học đàn Bầu chia sẻ: “Tôi chợt nhớ, cách đây 10 năm, tôi tình cờ xem được trên kênh truyền hình CCTV của Trung Quốc một chương trình hòa tấu nhạc dân tộc và đã rất kinh ngạc khi thấy có cây đàn Bầu trong dàn nhạc dân tộc Trung Quốc. Đây là điều chưa từng thấy trước đó”.
Nhạc sĩ Đỗ Lộc cho biết: “Năm 1967, Đoàn múa hát Quân giải phóng miền Nam Việt Nam sang Bắc Kinh biểu diễn. Tiết mục biểu diễn đàn Bầu của nhạc sĩ Đức Nhuận thật sự xuất sắc vì đàn Bầu là của Việt Nam mà Trung Quốc không có nên họ ngỏ lời xin học, Việt Nam đồng ý. Nghệ sĩ Điền Xương của Trung Quốc đi theo đoàn Việt Nam suốt thời gian đoàn lưu diễn để được thầy Đức Nhuận chỉ dẫn về đàn bầu...”.
Nghệ sĩ đàn bầu Nguyễn Tiến kể: “Cuối năm 2013, tôi đã từng nói chuyện và biểu diễn minh họa về lịch sử phát triển cây đàn bầu Việt Nam tại Học viện Quảng Tây (Trung Quốc), nơi cũng có một khoa giảng dạy đàn Bầu. Cả hội trường vô cùng ngạc nhiên. Trưởng khoa đàn Bầu (và là người chỉ huy dàn nhạc của học viện) là Thái Ương đã nói với tôi: “Nghe anh nói chuyện cả buổi sáng nay tôi mới hiểu được hết cái hay và cái đẹp của cây đàn Bầu Việt Nam. Học viện chúng tôi có khoa đàn Bầu là vì có một số học viên là người dân tộc Kinh có nhu cầu nên chúng tôi dạy thôi. Hiện nay cũng có học sinh Trung Quốc đang học tại Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam về đàn Bầu. Có cô gái Trung Quốc tên là Tôn Tiến cũng từng gặp tôi để học hỏi về đàn bầu”.
Theo một số nghệ sĩ và nhà nghiên cứu âm nhạc, đàn Bầu chỉ mới được Trung Quốc lưu tâm đến không đầy 20 năm sau này, vì trước đó không thấy dạy đàn bầu ở các nhạc viện Trung Quốc.
“Một chuyện khác là bản ARIRANG của Hàn Quốc đã bị Trung quốc dự định trình UNESCO để được tuyên dương là di sản văn hóa phi vật thể của Trung quốc vì họ có người Triều Tiên là sắc tộc sống ở Trung quốc. Nhưng ban nghiên cứu xứ Hàn Quốc đã phản ứng kịp thời và tổ chức hội thảo tại Seoul và tôi được mời tham dự hồ sơ này vào năm 2012. Và bản ARIRANG được UNESCO nhìn nhận là của Hàn Quốc vào năm 2014. Đối với việc muốn lấy đàn Bầu là nhạc cụ của Trung Quốc với lý do là Trung Quốc có một bộ lạc người Kinh sống ở xứ họ. Nhưng việc chuẩn bị để tước lấy đàn Bầu đã được nghĩ đến từ lâu? Họ mới gửi nhạc công sang Viêt Nam học đàn bầu, mời một số nhà nghiên cứu sưu tầm tài liệu để viết về đàn bầu và đưa lên wikipedia để tuyên bố là đàn Bầu là nhạc cụ Trung quốc chứ không phải Việt Nam.
Nếu các ban nghiên cứu của Việt Nam không phản ứng (Viện Âm nhạc và những nhà nghiên cứu Việt Nam không có phản ứng thì không sớm thì muộn nhạc cụ đàn Bầu sẽ thuộc quyền “sở hữu” của Trung Quốc đứng về mặt pháp lý”, GS Trần Quang Hải nói.
Theo Hà Tùng Long/Dân trí