(BVPL) - Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, thương mại dịch vụ lớn nhất trong cả nước; là đầu mối giao thông, giao lưu của cả nước, trong khu vực và trên phạm vi quốc tế; do đó, tình hình vi phạm và tội phạm luôn diễn biến phức tạp, trong đó có tội phạm tham nhũng.
 
Chính vì vậy, Thành ủy-HĐND-UBND Thành phố luôn quan tâm lãnh đạo công tác phòng, chống tham nhũng gắn với việc xây dựng và chỉnh đốn đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 11; triển khai thực hiện quyết liệt nhiều giải pháp phòng, chống tham nhũng theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2007 và 2012; qua đó, tình hình tham nhũng đã giảm so với thời điểm ban hành Luật Phòng, chống tham nhũng và thời điểm sơ kết 05 năm thực hiện phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp, tính chất, mức độ và hậu quả thiệt hại ngày càng nghiêm trọng và chủ yếu xảy ra ở các lĩnh vực như thanh tra xây dựng, quản lý đô thị, thuế, hải quan, đã có tác động, ảnh hưởng xấu đến lòng tin của nhân dân vào các cấp chính quyền.
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao, Viện kiểm sát 2 cấp đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng đẩy nhanh tiến độ, đảm bảo các vụ án tham nhũng được phát hiện, đều được điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật. 
 
Kết quả thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng
 
Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, ngay khi Luật Phòng chống tham nhũng có hiệu lực, các văn bản của Trung ương, chương trình hành động của Thành ủy về triển khai thi hành luật phòng, chống tham nhũng được ban hành, lãnh đạo VKSND Thành phố phối hợp cùng với Đảng ủy tổ chức cho đảng viên tham gia học tập đầy đủ các nội dung trên và cũng đã tổ chức Hội nghị cán bộ chủ chốt.
 
Qua triển khai, quán triệt hầu hết cán bộ, công chức ngành Kiểm sát Thành phố nhận thức rõ tác hại của tham nhũng là làm hại đến sự nghiệp xây dựng và phát triển của đất nước; làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, đối với chế độ; đồng thời thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng là góp phần xây dựng đất nước, xây dựng Đảng, xây dựng lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta.
 
VKSND TP.HCM tổ chức Hội nghị trực tuyến với 25 điểm cầu
VKSND TP.HCM tổ chức Hội nghị trực tuyến với 25 điểm cầu
 
Về kết quả thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng, hàng năm VKSND 2 cấp đều tiến hành rà soát, đánh giá, sắp xếp và luân chuyển bố trí cán bộ để tăng cường, củng cố, kiện toàn các đơn vị trọng yếu nhằm đảm bảo yêu cầu, nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, lãnh phí; thay thế ngay những cán bộ có nhiều dư luận tiêu cực, uy tín giảm sút hoặc có nhiều yếu kém về năng lực, trình độ, gây mất đoàn kết nội bộ kéo dài, không hoàn thành nhiệm vụ được giao.
 
Việc tuyển dụng, đề bạt, quy hoạch, bổ nhiệm và thực hiện các chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức đều được thực hiện công khai, minh bạch, đúng quy trình, thủ tục. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo kết hợp với việc bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ ngành Kiểm sát Thành phố. Khi đánh giá, đề bạt bổ nhiệm, bổ nhiệm lại Kiểm sát viên đều đảm bảo đúng quy trình, việc sắp xếp bố trí cán bộ công chức phù hợp với trình độ, khả năng. 
Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các quy định của Nhà nước về phòng ngừa tham nhũng nhằm giải quyết kịp thời các vấn đề tố cáo cán bộ, Kiểm sát viên liên quan đến tham nhũng, lãng phí. 
 
Ban Cán sự Đảng và lãnh đạo VKSND Thành phố đã thực hiện chuyển đổi vị trí công tác đối với 12 cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý có 02 nhiệm kỳ công tác; tham mưu điều động các Kiểm sát viên sơ cấp của VKSND Thành phố để tăng cường cho VKSND quận-huyện; điều động Kiểm sát viên sơ cấp có kinh nghiệm của VKSND quận-huyện tăng cường cho VKSND Thành phố để tiếp tục bồi dưỡng bổ nhiệm Kiểm sát viên trung cấp; điều động công chức, Kiểm sát viên giữa các phòng nghiệp vụ với nhau và giữa VKSND quận-huyện với nhau do yêu cầu công tác.
 
Thực hiện tốt các quy định về minh bạch tài sản thu nhập, hàng năm đều triển khai đến các đơn vị tiến hành kê khai tài sản, thu nhập đối với người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập. Việc thực hiện kê khai tài sản, thu nhập của các đơn vi được thực hiện tốt, đảm bảo đúng quy trình, thủ tục. Người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập kê khai tự giác, trung thực, rõ ràng, đúng thời hạn, không có trường hợp nào bất minh về tài sản.
 
Về công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, trong những năm qua không có trường hợp nào cán bộ, công chức vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng để bị xử lý theo quy định.
 
Về kết quả hoạt động giám sát, kiểm tra công tác phòng chống tham nhũng, kể từ ngày 01/4/2014, Thanh tra VKSND Thành phố đã đi vào hoạt động theo Quyết định số 15-QĐ-VKSTC-V9 ngày 18/2/2014 của VKSND tối cao, Thanh tra VKSND Thành phố tiếp tục tăng thanh tra công vụ đột xuất tại các đơn vị để phòng ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các trường hợp cán bộ vi phạm kỷ luật, không để xảy ra mất đoàn kết nội bộ, các đơn vị đều thành lập Tổ kiểm tra; 100% cán bộ, công chức cam kết thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 05-CT-VKSTC-TTr ngày 31/3/2014 của Viện trưởng VKSND tối cao về tăng cường, kỷ luật công vụ và trật tự nội vụ trong ngành KSND. Ngoài ra, tại các đơn vị có Ban Thanh tra nhân dân; định kỳ, hàng tháng hàng quý tiến hành kiểm tra, giám sát để chống tiêu cực, lãng phí.
 
Kết quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án tham nhũng.
Về tình hình tội phạm, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng trên địa bàn Thành phố đã có những chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng của cả nước nói chung; trong 10 năm, CQĐT 2 cấp đã khởi tố mới 121 vụ-285 bị can về các tội tham nhũng. 
 Tình hình vi phạm, tội phạm tham nhũng trong thời gian qua diễn biến phức tạp, xảy ra trong nhiều lĩnh vực đời sống xã hội như đầu tư xây dựng, quản lý đất đai, thuế, tài chính, tiền tệ, ngân hàng, hải quan,… với tính chất, mức độ nghiêm trọng; đối tượng phạm tội là cán bộ, công chức, nhân viên lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để nhận tiền hối lộ hoặc dùng thủ đoạn gian dối làm sai lệch chứng từ thanh toán để chiếm đoạt tiền của đơn vị hoặc làm trái các quy định của Nhà nước, thu chi sai nguyên tắc gây thất thu, thiệt hại tiền, tài sản của Nhà nước.
 
Về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm về tham nhũng và kiến nghị khởi tố, VKS 2 cấp tiếp tục đề ra nhiều biện pháp mang tính đột phá để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tiếp nhận, kiểm sát việc thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm về tham nhũng và kiến nghị khởi tố, đã kiểm sát 100% tố giác, tin báo và kiến nghị khởi tố tội phạm do CQĐT thụ lý. Ngoài ra, CQĐT 2 cấp cũng đã giải quyết tốt các công tác về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án tham nhũng, thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn truy tố, thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự về tham nhũng ở giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm và kháng nghị phúc thẩm.
 
Thông qua công tác kiểm sát và giải quyết các vụ án tham nhũng, VKSND Thành phố đã kiến nghị với Chủ tịch Ủy ban nhân dân và Trưởng ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng TP. Hồ Chí Minh về các biện pháp phòng ngừa tội phạm tham nhũng trên địa bàn thành phố; VKSND quận Phú Nhuận kiến nghị Chủ tịch UBND quận Phú Nhuận có biện pháp chỉ đạo UBND các phường rút kinh nghiệm trong phân công, quản lý, sử dụng cán bộ, công chức để phòng ngừa tham nhũng… 
 
Ngoài ra năm 2010, VKSND Thành phố đã xây dựng và tổ chức thành công Hội nghị chuyên đề “Đánh giá thực trạng tình hình và những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, xử lý tội phạm tham nhũng tại Thành phố Hồ Chí Minh”. 
 
Đánh giá về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết án tham nhũng
 
VKS hai cấp đã có nhiều nỗ lực làm tốt công tác thực hành quyền công tố đối với tội phạm tham nhũng, không để xảy ra án quá hạn điều tra, quá hạn truy tố; trong tổng số các bị cáo Tòa án đã đưa ra xét xử, không có trường hợp nào Tòa tuyên không phạm tội, trong đó, có những vụ án lớn, phức tạp, đông bị cáo, đông luật sư tham gia. Đối với các vụ án do VKSND tối cao ủy quyền, VKSND Thành phố đã thực hiện tốt công tác thực hành quyền công tố, KSXX. Các vụ án Tòa án đã đưa ra xét xử, phần lớn mức án Hội đồng xét xử tuyên phạt các bị cáo phù hợp mức án đề nghị của VKS, đảm bảo nghiêm minh, đúng quy định của pháp luật, có tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm, được dư luận xã hội đồng tình. 
 
Để đạt được những kết quả trên, lãnh đạo VKS 2 cấp đã chủ động phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra và Tòa án cùng cấp trong việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng; kịp thời tổ chức họp lãnh đạo liên ngành để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc đánh giá chứng cứ và tội danh.
Đối với các vụ án tham nhũng do Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Ban Nội chính Trung ương, Ban Thường vụ Thành ủy, Ban Nội chính Thành ủy Thành phố theo dõi, đôn đốc chỉ đạo hoặc các vụ án tham nhũng lớn được dư luận xã hội và quần chúng quan tâm, lãnh đạo VKSND Thành phố đã chỉ đạo phân công tổ án gồm những Kiểm sát viên có kinh nghiệm để nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án đánh giá chứng cứ một cách toàn diện, đề ra yêu cầu điều tra, xây dựng cáo trạng, luận tội, chuẩn bị đề cương xét hỏi, phối hợp tốt với Tòa án trong quá trình xét xử, tránh bỏ lọt tội phạm và làm oan sai người vô tội.
 
Tuy nhiên, trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng vẫn còn một số hạn chế như:
 
Do áp lực công việc nên công tác phối hợp giữa các cơ quan có chức năng phòng chống, xử lý tham nhũng trong một số trường hợp chưa tốt, dẫn đến hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng chưa cao; nhiều vụ án phải trả điều tra bổ sung nhiều lần hoặc bị hủy án làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án. 
 
Thông tin, dư luận phản ánh rất nhiều về tình trạng tham nhũng, trong một số lĩnh vực tham nhũng gây bức xúc trong quần chúng nhân dân nhưng số vụ tham nhũng khởi tố đưa vào xử lý ít, chưa phản ánh đúng thực trạng tình hình tham nhũng xảy ra.
 
Về những vướng mắc, bất cập trong Luật Phòng chống tham nhũng, theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012): “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” Luật PCTN quy định chủ thể của tham nhũng là “người có chức vụ, quyền hạn”, bao gồm cả  “người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó”. Nhưng trên thực tế, có những người mặc dù không có chức vụ, quyền hạn nhưng họ vẫn là đối tượng cần được nghiên cứu có phải là chủ thể của tham nhũng hay không, chẳng hạn như: người lợi dụng sự ảnh hưởng của người có chức vụ, quyền hạn để thu lợi cá nhân; người tiếp tay, giúp sức người có chức vụ, quyền hạn thực hiện các hành vi tham nhũng. 
 
Bên cạnh đó, việc quy định chủ thể tham nhũng là người được giao thực hiện nhiệm vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó còn có nhiều cách hiểu khác nhau, bởi theo quy định này thì không rõ nhiệm vụ được nêu là nhiệm vụ ở trong khu vực công hay ở khu vực tư. Nếu bao gồm cả khu vực tư thì người được giao nhiệm vụ quản lý, kiểm soát nguồn vốn, tài sản, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, tập thể (chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng, trưởng ban kiểm soát của doanh nghiệp) đã lợi dụng nhiệm vụ của mình để vụ lợi cũng được coi là chủ thể của tham nhũng.
 
Tại khoản 1 Điều 2 Luật PCTN: “Tài sản tham nhũng là tài sản có được từ hành vi tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ hành vi tham nhũng”. Theo quy định này, để kết luận tài sản của một người nào đó có được do tham nhũng thì phải chứng minh được rằng người đó đã có hành vi tham nhũng. Hay nói cách khác, pháp luật hiện tại định nghĩa tài sản tham nhũng phải là tài sản của người đã bị kết án về hành vi tham nhũng. Nhưng từ khi phát hiện đến tiến hành các hoạt động điều tra vụ án tham nhũng là một quá trình dài và trong thời gian đó, nghi can cũng như người thân của họ đã kịp tẩu tán tài sản. Việc tẩu tán lại vô cùng dễ dàng khi mà Nhà nước chưa thể kiểm soát được tài sản, thu nhập của toàn xã hội.Chính từ quy định bất cập này nên muốn thu hồi tài sản thì trước hết phải xác định được người đó có hành vi tham nhũng không? Về lý thuyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS), để hoàn thành một quy trình từ khi điều tra, truy tố đến lúc xét xử sơ thẩm vụ án phải mất thời gian rất lâu tùy tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, dẫn đến khi bản án có hiệu lực pháp luật thì tài sản tham nhũng đã bị tẩu tán, nhiều tài sản do đối tượng chiếm đoạt đã được chuyển hóa thành tài sản của người thân và chuyển dịch ra nước ngoài. Khi phát hiện ra dấu hiệu của đối tượng tham nhũng, Cơ quan điều tra tiến hành khởi tố, bắt tạm giam thì tài sản đã được tẩu tán trước đó không thể thu hồi được, đến khâu thi hành án bị cáo, bị án trở thành kẻ trắng tay như vụ án tham nhũng tại Công ty Cho thuê tài chính II, Vũ Quốc Hảo, nguyên Tổng Giám đốc công ty Cho thuê tài chính II bị tuyên án tử hình. Tổng giá trị thiệt hại do hành vi phạm tội của Vũ Quốc Hảo và 10 đồng phạm gây ra trong vụ án này là 531,8 tỉ đồng, trong đó tham ô 79,9 tỉ đồng, lừa đảo 60,9 tỉ đồng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại 3,9 tỉ đồng. Dù thiệt hại vô cùng lớn nhưng Cơ quan điều tra chỉ mới thu hồi 5,8 tỉ đồng cùng 4 căn nhà và 1 thửa đất. Điều đó cho thấy, cái yếu trong thu hồi TSTN là do quy định của pháp luật hiện hành lĩnh vực phòng, chống tham nhũng chưa phù hợp, phạm vi điều chỉnh còn quá hẹp “Tài sản tham nhũng là tài sản có được từ hành vi tham nhũng.
 
Về những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật, để có cơ sở quy kết trách nhiệm hình sự theo quy định về các tội phạm về tham nhũng (từ Điều 278 đến Điều 284, Mục A Chương XXI  BLHS) thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh đối tượng phạm tội có mục đích vụ lợi, trong khi để chứng minh được yếu tố vụ lợi lại rất khó khăn nên thực tế việc phát hiện, xét xử án tham nhũng không nhiều, mà chỉ dừng lại điều tra, truy tố và xét xử về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” theo quy định tại Điều 165 BLHS. Đây cũng là bất cập đó là, dấu hiệu định tội của một số tội danh, trong Chương XXI của Bộ luật Hình sự gần giống nhau, rất khó áp dụng như tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, tội “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ”, tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”, “Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước”, tội “Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” với các tội phạm quy định trong một số lĩnh vực cụ thể; Chưa có hướng dẫn cách tính thiệt hại tài sản của Nhà nước đối với các doanh nghiệp cổ phần có vốn góp nhà nước ở một số tội danh như “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ”, “Tham ô tài sản” để làm cơ sở xác định dấu hiệu định tội, định khung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người phạm tội; Tố giác, tin báo tội phạm tham nhũng và các vụ án tham nhũng rất phức tạp, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều đối tượng, nhiều địa phương, lĩnh vực. Do đó, việc xác minh thu thập tài liệu, chứng cứ gặp nhiều khó khăn, trong khi đó thời hạn giải quyết tin báo theo Điều 103 Bộ luật Tố tụng hình sự và Thông tư liên tịch 06 lại quá ngắn. Đồng thời, lực lượng Điều tra viên và cán bộ điều tra còn thiếu, dẫn đến tỷ lệ giải quyết thấp, số lượng tin tồn và tin quá hạn nhiều; Việc giám định kéo dài dẫn đến một số vụ việc chậm được xử lý hoặc kéo dài thời gian giải quyết như vụ việc sai phạm trong việc thực hiện các gói thầu san lắp và chi thuê đất tại dự án khu công nghiệp Cái Mép của Tổng công ty Xây dựng Sài Gòn TNHH một thành viên.; Một số vụ án cần ủy thác tư pháp và phối hợp Interpol các nước  gặp rất nhiều khó khăn, thường không có kết quả phản hồi hoặc rất chậm làm ảnh hưởng đến điều tra, truy tố, xét xử như vụ án Lê Dũng cùng đồng phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Đưa, nhận hối lộ”, “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”... xảy ra tại Công ty Cổ phần Thực phẩm công nghệ Sài Gòn (Công ty CPCN Sài Gòn), Chi cục Hải quan Sài Gòn Khu vực và Cửa khẩu Khánh Bình-An Giang. Việc ủy thác tư pháp cho các cơ quan có thẩm quyền của Campuchia để phục vụ cho việc điều tra, giải quyết vụ án đến nay đã gần một năm vẫn chưa có kết quả; Đối tượng phạm tội tham nhũng thường là những người có trình độ, kiến thức, chuyên môn cao nên việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử gặp không ít khó khăn.
 
Những khó khăn, vướng mắc trên dẫn đến nhiều vụ án quan điểm giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án khác nhau trong việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, xác định khung hình phạt, dẫn đến tình trạng phải trả điều tra bổ sung nhiều lần, làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án.
Qua thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm tham nhũng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Viện KSND Thành phố đề xuất một số giải pháp.
 
Một là, cần sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự theo hướng rõ ràng, dễ hiểu, dễ áp dụng. Trước mắt đề nghị cơ quan tố tụng Trung ương cần có văn bản hướng dẫn những điều luật khó hiểu, khó áp dụng, cách tính thiệt hại về tài sản đối với các công ty có vốn góp của nhà nước; hướng dẫn xác định hậu quả, thu lợi bất chính, bỏ trốn... 
 
Hai là, cần nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng, nêu cao tính tiên phong, gương mẫu của các tổ chức Đảng và Đảng viên trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức... Tăng cường vai trò của Chi bộ trong quản lý, giáo dục đảng viên và các đơn vị có điều kiện phát sinh tham nhũng cũng như các cơ quan, đơn vị có chức năng phòng, chống tham nhũng. Đây là một trong những biện pháp quan trọng trong công tác đấu tranh phòng ngừa và xử lý tham nhũng. 
 
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong tất cả các lĩnh vực đặc biệt là các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, công khai hóa các quy định của Nhà nước. Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong các hoạt động kinh tế, quản lý xã hội, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi nhưng vẫn kiểm soát các hoạt động kinh doanh của mọi thành phần kinh tế theo đúng quy định của pháp luật. Đây là cơ sở bảo đảm cho sự phát triển lành mạnh của các quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội nhằm khắc phục những sơ hở thiếu sót, bất cập trong công tác quản lý, làm nảy sinh cơ hội cho tham nhũng phát triển; Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để phát hiện xử lý các hành vi tham nhũng, tập trung vào những khâu, lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng như: Thuế, Hải quan, Quản lý sử dụng đất đai, Xuất nhập khẩu, Ngân hàng, lĩnh vực sử dụng vốn viện trợ, vốn vay nước ngoài… Có biện pháp tuyên truyền vận động quần chúng, nhân dân, cơ quan, tổ chức, ban ngành, đoàn thể, người lao động trong các doanh nghiệp… nêu cao tinh thần đấu tranh phòng chống tham nhũng; cung cấp thông tin, tố giác tội phạm về tham nhũng cho các cơ quan chức năng.
 
Bốn là, Nhà nước cần quan tâm đến việc cải cách tiền lương, tăng thu nhập cho cán bộ công chức đủ đảm bảo cuộc sống để họ toàn tâm, toàn ý cho công việc.
 
Năm là, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, điều kiện làm việc, phương tiện kỹ thuật, nâng cao trình độ của cán bộ làm công tác phòng, chống tham nhũng. Xây dựng lực lượng chuyên trách đủ mạnh, có đủ phẩm chất chính trị, bản lĩnh đạo đạo đức nghề nghiệp làm nòng cốt trong công tác phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng theo hướng chuyên môn hóa với các phương tiện, công cụ, kỹ năng phù hợp, bảo đảm vừa chuyên sâu, vừa bao quát các lĩnh vực, các mặt của đời sống kinh tế-xã hội. 
 
Phi Sơn